Kim loại nặng trong môi trường vịnh Vân Phong - Bến gỏi, Khánh Hòa

Tạp chí Khoa học và Công nghBiển T12 (2012). S3. Tr 12 - 23  
KIM LOẠI NẶNG TRONG MÔI TRƯỜNG  
VỊNH VÂN PHONG - BẾN GỎI, KHÁNH HÒA  
LÊ THỊ VINH  
Viện Hải dương học Nha Trang  
Tóm tắt: Bài báo trình bày dẫn liệu về các kim loại nặng trong môi trường nước, trầm  
tích, Hàu Saccostrea cucullata và cỏ biển (cỏ Vích Thalassia hemprichii và Lá Dừa  
Enhalus acoroides) tại vịnh Vân Phong - Bến Gỏi vào mùa khô (4-6/2009) và mùa mưa  
(10-11/2009). Kết quả phân tích cho thấy nồng độ các kim loại trong môi trường nước (Zn  
từ 8,7 đến 34,0g/l; Cu từ 0,6 đến 42g/l; Pb từ 0,4 đến 3,8g/l; Cd từ 0,04 đến 0,32g/l  
và Cr từ 1,1 đến 3,1g/l) không cao. Hàm lượng các kim loại nặng trong môi trường trầm  
tích (Zn từ 19,4 đến 68,2 g/g; Cu từ 0,4 đến 11,7g/g; Pb từ 1,9 đến 22,9g/g; Cd từ 0,5  
đến 0,21g/g và Cr từ 4,3 đến 26,6g/g) cũng không lớn so với các giá trị giới hạn qui  
định trong các qui chuẩn/tiêu chuẩn với mục đích bảo tồn đời sống thủy sinh trừ trầm tích  
lân cận khu vực nhà máy đóng tàu Hyundai-Vinashin (HVS). Trong sinh vật, hàm lượng  
các kim loi trong Hàu (Cu từ 100 đến 246g/g tươi; Pb từ 0,19 đến 0,44g/g tươi; Cd từ  
0,4 đến 0,83g/g tươi và Cr từ 0,28 đến 1,03g/g tươi) tương đối thấp so với qui định về  
an toàn thực trừ Cu, nhất là khu vực đảo Mỹ Giang - gần nhà máy HVS. Lá cỏ biển cũng  
tích lũy một lượng các kim loại nặng đáng kể (Fe từ 54,3 đến 68,2g/g khô; Zn từ 29,6 đến  
35,3g/g khô; Cu từ 5,0 đến 5,4g/g khô và Pb từ 1,8 đến 2,6g/g khô). Không có sự khác  
biệt lớn về hàm lượng các kim loại nặng trong môi trường nước, và trong Hàu giữa 2 mùa.  
I. MỞ ĐẦU  
Vịnh Vân Phong có địa hình đa dạng, đặc biệt là hệ thống đảo, bán đảo, vịnh sâu và  
kín gió, bờ và bãi biển, cồn cát hấp dẫn và là khu vực có hệ sinh thái đa dạng như rừng  
nhiệt đới, rừng ngập mặn, rạn san hô và thảm cỏ biển ở vùng nước nông ven b. Khu vực  
này là nơi đã có nhiều dự án kinh tế được triển khai như là hoạt động của nhà máy đóng  
tàu biển của nhà máy Hyundai-Vinashin, hoạt động trung chuyển dầu, du lịch…hoặc đã  
được duyệt kế hoạch đầu tư như là dán xây dng cảng trung chuyển quốc tế, dán nhà  
máy nhiệt điện than. Các hoạt động kinh tế tư nhân cũng khá phát triển như là nuôi trồng  
(nhất là trong khu vực bờ Tây vịnh Bến Gỏi) và đánh bắt thủy sản. Các khu dân cư và  
công nghiệp có mật độ khá cao ở vùng bờ phía Tây và Tây Nam. Các sự cố môi trường đã  
từng xảy ra ở khu vực này như là thủy triều đỏ (Pham Van Thom, Le Thi Vinh, 2000), tràn  
dầu (Lê Thị Vinh, 2007). Như vậy, trong giai đọan hiện nay và nhất là trong tương lai,  
vịnh Vân Phong - Bến Gỏi có khả năng sẽ chịu sức ép rất lớn bởi các nguồn thải từ các  
hoạt động kinh tế - xã hội trong đó có kim loại nặng bởi tính độc hại đe dọa đến sự sống  
của sinh vật thủy sinh, gây nguy cơ cho sức khỏe của con người như đã biết.  
Tuy nhiên, các công trình công bvề sự nhiễm bẩn của các kim loại nặng trong vịnh  
Vân Phong chỉ được thực hiện vào thời gian 5 năm trước đây (Phạm Văn Thơm, 1998;  
12  
Phạm Văn Thơm và cộng sự, 2000; Le Thi Vinh &.Galapate, 2005; Lê Thị Vinh và cộng  
sự, 2006). Vì vậy, việc tiếp tục theo dõi mức độ nhiễm bẩn của các kim loại nặng trong  
môi trường (nước, trầm tích và sinh vật) vịnh Vân Phong, đóng góp cơ sở khoa học cho  
việc hoạch định chính sách, khai thác hợp lý, bảo vệ và phát triển bền vững tài nguyên  
biển là hết sức cần thiết.  
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
Đã thực hiện 2 đợt khảo sát vào tháng 4/2009 (mùa khô) và tháng 10/2009 (mùa mưa)  
để thu các mẫu nước (tầng mặt và đáy) trong vịnh Vân Phong - Bến Gỏi. Bên cạnh đó,  
mẫu nước tại trạm liên tục (VF 8, ốp 6h) và mẫu trầm tích (lớp 5cm trên cùng) cũng được  
thu vào đợt khảo sát tháng 4/2009. Vị trí các trạm thu mẫu được trình bày trong hình 1.  
Hình 1: Vị trí các trạm thu mẫu trong vịnh Vân Phong  
Mẫu Hàu Saccostrea cucullata được thu vào tháng 6 và tháng 11 tại khu vực Mũi Dù  
(cách nhà máy đóng tàu Hyundai-Vinashin - HVS khoảng 10km về phía Bắc) và đảo Mỹ  
Giang (gần HVS), mẫu cỏ biển (cỏ Vích Thalassia hemprichii và Lá Dừa Enhalus  
acoroides) cũng được thu vào tháng 6 năm 2009 tại khu vực đảo Mỹ Giang. Đây là các  
loài sinh vật xuất hiện khá phổ biến trong vịnh Vân Phong.  
Các kim loại nặng (Zn, Cu, Pb, Cd, và Cr) trong mẫu nước, trầm tích, Hàu và lá cỏ  
biển được thu, bảo quản và phân tích theo các phương pháp được mô tả trong APHA  
13  
(2005), Hungspreugs et al.(1991) and CNEXO (1983). Ngoài ra, cấp hạt bùn sét  
(<0,062mm) của trầm tích cũng được phân tích theo Qui Phạm tạm thời Điều tra Địa chất  
Địa mạo Biển Bộ KH & CN (1983).  
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU  
1. Nồng độ các kim loại trong môi trường nước  
a. Trạm mặt rộng  
Kết quả phân tích nồng độ các kim loại nặng trong mẫu nước thu vào tháng 4/2009 và  
10/2009 trong vịnh Vân Phong - Bến Gỏi được thống kê trong bảng 1. Đồ thị thể hiện  
nồng độ các kim loại tại các trạm được thể hiện trong hình 2. Từ đó có thể thấy xu thế  
biến đổi như sau:  
Bảng 1: Giá trị thống kê nồng độ các kim loại trong vịnh Vân Phong theo mùa  
Zn  
(g/l)  
13,0  
8,7  
Cu  
(g/l)  
1,7  
Pb  
(g/l)  
1,2  
0,4  
2
Cd  
(g/l)  
0,08  
0,04  
0,21  
20  
Cr  
(g/l)  
1,9  
1,1  
2,2  
20  
Thời gian  
Giá trị  
4/2009  
T.bình  
C.tiểu  
0,6  
C.đại  
34,0  
20  
2,8  
Số mẫu  
20  
20  
10/2009  
T.bình  
19,7  
11,8  
27,8  
20  
3,1  
2,3  
0,9  
3,8  
20  
0,11  
0,05  
0,32  
20  
1,7  
0,8  
3,1  
20  
C.tiểu  
1,9  
C.đại  
4,2  
Số mẫu  
20  
QCVN  
Bảo tồn thủy sinh  
Bãi tắm  
50  
30  
50  
5
20  
10:2008/BTNMT  
1.000  
2.000  
500  
1.000  
20  
5
50  
Mục đích khác  
100  
5
50  
Vào đợt khảo sát tháng 4/2009 (mùa khô), nồng độ các kim loại nặng trong khu vực  
khảo sát không cao (trừ Zn tại VF2, tầng đáy tới 34g/l) và không có sự khác biệt lớn về  
nồng độ các kim loại nặng giữa các trạm. Trong số các kim loại được khảo sát Zn có nồng  
độ cao nhất (thấp hơn 50g/l). Kế tiếp là các kim loại Cu, Pb, Cr có nồng độ thấp hơn  
5g/l. Cd là kim loại có nồng độ thấp nhất (luôn nhỏ hơn 1g/l).  
Vào đợt khảo sát tháng 10/2009, xu thế phân bố nồng độ của các kim loại trong vịnh  
cũng tương tự như đợt khảo sát tháng 4/2009. Có nghĩa là không có sự khác biệt lớn về  
nồng độ của các kim loại giữa các trạm. Zn vẫn là kim loại có nồng độ lớn nhất trong số  
các kim loại khảo sát, tiếp đến là Cu, Pb, Cr và Cd.  
14  
Zn trong nước  
g/l  
40  
30  
20  
10  
0
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
VF1  
VF2  
VF3  
VF4  
4/2009  
VF5  
VF6  
VF7  
10/2009  
VF8  
VF9  
VF10  
Trạm  
Cu trong nước  
g/l  
5
4
3
2
1
0
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
VF1  
VF2  
VF3  
VF4  
4/2009  
VF5  
VF6  
VF7  
10/2009  
VF8  
VF9  
VF10  
Trạm  
g/l  
Pb trong nước  
4
3
2
1
0
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
VF1  
VF2  
VF3  
VF4  
4/2009  
VF5  
VF6  
VF7  
10/2009  
VF8  
VF9  
VF10  
Trạm  
g/l  
Cr trong nước  
4
3
2
1
0
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
M
Đ
VF1  
VF2  
VF3  
VF4  
4/2009  
VF5  
VF6  
VF7  
10/2009  
VF8  
VF9  
VF10  
Trạm  
M: tầng mặt, Đ: tầng đáy.  
Hình 2: Nồng độ các kim loại tại các trạm  
15  
Về sự phân bố của nồng độ các kim loại trong cột nước, các dẫn liệu trong hình 2 cũng  
cho thấy không có sự khác biệt lớn về nồng độ các kim loại giữa tầng mặt và tầng đáy nếu  
không kể đến giá trị tương đối cao của Zn tại trạm VF2.  
Về sự phân bố theo mùa, nồng độ các kim loại trong vịnh Vân Phong được thể hiện  
trong hình 2 đã cho thấy nồng độ các kim loại Zn, Cu và Pb cao hơn vào tháng 10/2009  
mặc dù Zn đã có giá trị cao nhất vào tháng 4/2009 (trạm VF2). Các dẫn liệu thống kê  
trong bảng 1 cũng cho thấy điều này. Tuy nhiên, sự cao hơn của nồng độ Zn, Cu và Pb  
trong tháng 10/2009 so với tháng 4/2009 là không nhiều. Không có sự khác biệt về nồng  
độ các kim loại Cd và Cr giữa 2 đợt khảo sát.  
b. Trạm liên tục  
Kết quả phân tích hàm lượng các kim loại nặng trong các mẫu nước thu được tại trạm  
VF8 cũng cho thấy hàm lượng các kim loại nặng cũng không thay đổi theo thời gian và  
không có sự khác biệt về m lượng các kim loại giữa 2 tầng (Bảng 2). Điều này chứng tỏ  
sự xáo trộn của vực nước khá tốt.  
Bng 2: Giá trị thống kê hàm lượng các kim loại nặng tại trạm liên tục (4/2009)  
Tầng  
Tầng  
mặt  
Giá trị  
Zn (g/l) Cu (g/l) Pb (g/l) Cd (g/l) Cr (g/l)  
Trung bình  
12,6  
10,7  
15,1  
5
1,5  
0,9  
1,8  
5
1,0  
0,6  
1,7  
5
0,2  
0,12  
0,2  
5
1,9  
1,5  
2,7  
5
Cực tiểu  
Cực đại  
Số mẫu  
Tầng  
Trung bình  
đáy  
12,4  
11,6  
12,9  
5
1,7  
1,4  
1,9  
5
1,5  
0,4  
3,7  
5
0,1  
0,1  
0,2  
5
1,7  
1,4  
2,1  
5
Cực tiểu  
Cực đại  
Số mẫu  
So sánh với các kết quả khảo sát trong giai đoạn 2000 - 2001 trong phần Tây Nam  
vịnh Vân Phong (Pham Van Thom et al., 2002) có thể thấy là nồng độ các kim loại nặng  
Zn, Cu, Pb, Cd trong nước không có sự thay đổi lớn.  
* Đánh giá chất lượng nước về mặt kim loại nặng: Căn cứ theo QCVN 10:  
2008/BTNMT, nồng độ các kim loại nặng trong tất cả các mẫu phân tích đều thấp hơn  
giới hạn cho phép đối với (a) nước nuôi trồng thủy sản, bảo tồn thủy sinh; (b) nước vùng  
bãi tắm thể thao dưới nước và (c) các mục đích khác.  
2. Hàm lượng các kim loại trong môi trường trầm tích  
Kết quả phân tích 9 mẫu trầm tích vào tháng 4/2009 được thống kê trong bảng 3 và  
trình bày trong hình 3 cho thấy hàm lượng các kim loại trong các mẫu trầm tích biến động  
trong phạm vi rộng. Tỉ lệ cấp hạt bùn sét của trầm tích cũng có xu thế biến động tương tự.  
16  
Zn -Cr trong trầm tích ( g/g)  
80  
60  
40  
20  
0
Trạm  
VF10  
VF1  
VF1  
VF1  
VF2  
VF2  
VF2  
VF3  
VF5  
Zn  
VF6  
VF7  
VF8  
VF9  
Cr  
Cu -Pb trong trầm tích ( g/g)  
25  
20  
15  
10  
5
0
Trạm  
VF10  
VF3  
VF5  
Cu  
VF6  
VF7  
VF8  
VF9  
Pb  
Tỉ lệ bùn sét (%) trong trầm tích  
100  
75  
50  
25  
0
Trạm  
VF10  
VF3  
VF5  
VF6  
VF7  
VF8  
VF9  
Hình 3: Hàm lượng các kim loại trong môi trường trầm tích  
Bảng 3: Hàm lượng các kim loại trong môi trường trầm tích vịnh Vân Phong (4/2009)  
Giá trị  
Tỉ lệ cấp hạt bùn  
Zn  
Cu  
Pb  
(g/g)  
13,9  
1,9  
22,9  
9
Cd  
(g/g)  
0,1  
0,05  
0,21  
9
Cr  
(g/g)  
14,1  
4,3  
26,6  
9
sét  
(%)  
71,1  
4,79  
99,04  
9
(g/g) (g/g)  
Trung bình  
Cực tiểu  
Cực đại  
Số mẫu  
TEL  
43,5  
19,4  
68,2  
9
5,0  
0,4  
11,7  
9
124  
271  
18,7  
108  
30,2  
112  
0,7  
4,2  
52,3  
160  
-
-
PEL  
17  
Kết quả tính toán tương quan giữa hàm lượng các kim loại nặng với tỷ lệ cấp hạt bùn  
sét của trầm tích (bảng 4) cho thấy chúng có tương quan tương đối chặt trừ trường hợp Cd.  
Trầm tích tại trạm 3, 6 và 9 được cấu tạo chủ yếu bởi cát thô và vì vậy, hàm lượng các kim  
loại trong trầm tích cũng thấp nhất. Ngược lại, trầm tích trong các mẫu thu tại các trạm  
còn lại cấu tạo chủ yếu bởi cấp hạt bùn sét nên hàm lượng các kim loại khá cao. Theo  
Luoma (1990), trầm tích được cấu tạo bởi các hạt có kích thước càng nhỏ, càng có khả  
năng hấp phụ các kim loại nặng nhiều hơn so với trầm tích được cấu tạo bởi cát thô.  
Bảng 4: Hệ số tương quan (R2) giữa tỷ lệ bùn sét (%) với các kim loại nặng  
Zn - % bùn  
sét  
Cu - % bùn  
sét  
Pb - % bùn  
sét  
Cd - % bùn  
sét  
Cr - % bùn  
sét  
0,6946  
0,5575  
0,7104  
0,3861  
0,6607  
Tuy nhiên, cần lưu ý là các mẫu trầm tích tại khu vực cảng của nhà máy đóng tàu  
Hyundai-Vinashin (HVS) tại vịnh Vân Phong hàm lượng các kim loại nặng thường rất  
cao, đặc biệt là trường hợp của Cu, Zn (bảng 5). Nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng  
của hoạt động sửa chữa tàu của nhà máy (nhà máy dùng hạt NIX để làm sạch vỏ tàu, hạt  
NIX chứa nhiều kim loại, đặc biệt là Cu, Pham Van Thom et al., 2002).  
Bảng 5: Hàm lượng kim loại nặng trong trầm tích khu vực Hyundai-Vinashin, năm 2009  
(Nguồn: Trung tâm Quan trắc, Sở Tài nguyên và Môi trường, Khánh Hòa)  
Giá trị  
Fe  
Mn  
Cd  
Zn  
Cu  
Pb  
Cr  
(g/g)  
14,3  
2,9  
(g/g)  
(g/g)  
(g/g)  
(g/g) (g/g) (g/g)  
Trung bình  
Cc tiu  
Cc đại  
Số mẫu  
TEL  
45.553  
245  
175  
350  
6
1.924  
330  
7.259  
6
1.607  
345  
4.330  
6
177,4  
61,9  
566,0  
6
3,7  
1,6  
6,3  
6
2.730  
233.776  
32,6  
6
6
-
-
124  
271  
18,7  
108  
30,2  
112  
0,7  
4,2  
52,3  
160  
-
-
PEL  
* Đánh giá chất lượng trầm tích: Về mức độ nhiễm các kim loại nặng độc hại có thể áp  
dụng các khái niệm ngưỡng tác động (TEL) và mức có thể gây tác động (PEL) được sử  
dụng với mục đích bảo vệ đời sống thủy sinh (CCME, 2003). Trong bảng 3, hàm lượng  
các kim loại trong trầm tích vịnh Vân Phong vào năm 2009 được so sánh với giá trị  
TEL và PEL. Có thể thấy hàm lượng các kim loại Zn, Cu, Pb, Cd và Cr đều thấp hơn  
giá trị của TEL.  
3. Hàm lượng các kim loại nặng trong sinh vật  
a. Trong Hàu Saccostrea cucullata  
Như đã biết, do tập tính ăn lọc nên Hàu Saccostrea cucullata i riêng và các động vật  
hai mảnh vỏ nói chung có khả năng tích tự các chất độc hại, trong đó có kim loại nặng.  
Khi được sử dụng làm thực phẩm, các kim loại nặng được tích lũy vào cơ thể con người  
và có khả năng gây ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe. Kết quả phân tích hàm lượng các  
18  
kim loại trong cơ thể Hàu Saccostrea cucullata tại đảo Mỹ Giang (gần nhà máy HVS) và  
khu vực Mũi Dù (cách HVS cỡ 10km) cho thấy là hàm lượng Cu trong Hàu cao nhất trong  
các kim loại khảo sát (bảng 6). Theo Bryan,(1984); Huaxin et al. (2000), Cu là kim loại  
mà Hàu đặc biệt tích lũy. Kết quả phân tích cũng cho thấy hàm lượng Pb, Cr và đặc biệt là  
Cu trong Hàu ở đảo Mỹ Giang (gần nhà máy đóng tàu HVS) đã cao hơn so với khu vực  
Mũi Dù (nơi ít chịu ảnh hưởng bởi hoạt động của nhà máy HVS). Liên quan đến Cd, theo  
Blackmore (1996), do Zn và Cd có đặc tính hóa học tương tự nên dẫn đến sự cạnh tranh  
trong việc tích lũy của chúng trong cơ thể sinh vật. Như đã trình bày ở trên, hàm lượng  
của Zn trong nước biển cao hơn nhiều so vi Cd, vì vậy, hàm lượng của Cd trong Hàu tại  
Mỹ Giang thấp hơn so với khu vực Mũi Dù có thể là do sự cao hơn nhiều của Zn tại Mỹ  
Giang. Hiện tại, không có số liệu của Zn trong cơ thể Hàu nhưng hiện tượng Zn trong Hàu  
ở Mỹ Giang cao hơn so với ở Mũi Dù trong khi Cd co xu thế ngược lại đã được ghi nhận  
trong kết quả khảo sát của Le Thi Vinh & Galapate (2005). Vấn đề này cần được nghiên  
cứu kỹ hơn.  
Căn cứ theo qui định của Bộ Y tế Việt Nam (quyết định số 867/1998/QĐ-BYT) về an  
toàn thực phẩm (30µg/g tươi đối với Cu, 2µg/g tươi đối với Pb, 1µg/g tươi đối với Cd) đối  
với cá và sản phẩm cá và của Bộ Y tế Hồng Kong(1µg/g tươi đối với Cr) (Chau, et al,  
1999); có thể thấy là hàm lượng Cu trong cơ thể Hàu đã vượt quá GHCP, nhất là tại khu  
vực Mỹ Giang, tương tự như các kết quả nghiên cứu trước đây (Le Thi Vinh and Galapate,  
2005; Lê Thị Vinh và cộng sự, 2006).  
Bảng 6: Hàm lượng trung bình của các kim loại trong Hàu Saccostrea cucullata,  
vịnh Vân Phong  
Khu vực  
Cu (g/g tươi)  
Pb (g/g tươi)  
Cd (g/g tươi)  
Cr (g/g tươi)  
6/2009 11/2009 6/2009 11/2009 6/2009 11/2009 6/2009 11/2009  
Mỹ Giang  
(gần HVS)  
Mũi Dù  
246,06 273,76  
99,98 98,64  
0,44  
0,36  
0,36  
0,19  
0,40  
0,53  
0,49  
0,83  
1,03  
0,83  
0,46  
0,28  
(xa HVS)  
GHCP  
30  
2
1
1
So sánh với các kết quả nghiên cứu trước đây (Le Thi Vinh and Galapate, 2005; Lê  
Thị Vinh và cộng sự, 2006) cho thấy là trong số các kim loại được khảo sát, Cu trong Hàu  
tại Mỹ Giang có xu thế giảm nhẹ. Nguyên nhân sự giảm hàm lượng của Cu có thể liên  
quan đến việc sử dụng hạt NIX trong quá trình làm sạch vỏ tàu của nhà máy HVS. Trong  
thời gian trước năm 2005, một lượng lớn hạt NIX đã được sử dụng, tuy nhiên, từ đầu năm  
2008 đến nay, nhà máy HVS đã chuyển sang đóng tàu mới và lượng hạt NIX được sử  
dụng đã ít hơn.Vấn đề này cần tiếp tục theo dõi.  
b. Trong cỏ biển  
Theo Ward (1989), hàm lượng các kim loại tích lũy trong cỏ biển cao có thể sẽ làm  
tăng hàm lượng của chúng trong cơ thể một số loài động vật sống trong thảm cỏ biển qua  
19  
con chuỗi thức ăn Bởi vì vào thời kỳ cao điểm của gió mùa, lá của chúng được bứt ra khỏi  
cây. Một số bị dòng chảy đem đi xa, số còn lại chìm xuống đáy và được phân hủy. Các  
loài sinh vật ăn mùn bã xé lá thành những mảnh nhỏ và sau đó được tiêu thụ bởi vi khuẩn  
và nấm. Nhiều động vật không xương sống cũng ăn cỏ biển thối rữa. Đến lượt chúng trở  
thành thức ăn cho các bậc dinh dưỡng cao hơn như cá và cua. Điều này có thể sẽ gây ảnh  
hưởng không tốt cho sức khoẻ con người qua việc tiêu ththực phẩm.  
Hàm lượng kim loại nặng (Fe, Zn, Cu và Pb) trong lá cỏ biển phổ biến tại khu vực biển  
Mỹ Giang (cỏ Vích Thalassia hemprichii và Lá Dừa Enhalus acoroides) được trình bày  
trong bảng 7. Từ đó thấy là 2 loài cỏ biển này đã tích lũy một lượng các kim loại khá lớn  
từ môi trường nhất là Fe và Zn. Theo Lê Thị Vinh và cộng sự, 2006, hàm lượng các kim  
loại nặng Zn và Cu trong cỏ biển tại khu vực Mỹ Giang cao hơn so với Cam Ranh, Xuân  
Tự, đây là các khu vực không chịu ảnh hưởng của nhà máy HVS.  
So sánh với kết quả nghiên cứu trước đây (Lê Thị Vinh và cộng sự, 2006) có thể thấy  
là hàm lượng Zn và Cu lá cỏ biển tại khu vực Mỹ Giang thấp hơn so với năm 2005. Tương  
tự như đối với hàm lượng các kim loại nặng trong hàu tại Mỹ Giang trên đây, nguyên nhân  
của sự giảm hàm lượng các kim loại Zn và Cu có thể cũng là do việc sử dụng hạt NIX  
trong quá trình làm sạch vỏ tàu của nhà máy HVS giảm.  
Bng 7: Hàm lượng các kim loại trong lá cỏ biển tại Mỹ Giang (tháng 6/2009)  
Fe  
Zn  
Cu  
Pb  
Tên  
(µg/g khô) (µg/g khô) (µg/g khô) (µg/g khô)  
Cỏ Vích Thalassia  
hemprichii  
68,2  
54,3  
35,3  
29,6  
5,4  
5,0  
2,6  
1,8  
Cỏ Lá dừa Enhalus  
acoroides  
IV. NHẬN XÉT  
Trong môi trường nước, nồng độ các kim loại nặng không cao. Không có sự khác  
biệt về nồng độ các kim loại giữa vịnh Vân Phong và Bến Gỏi và giữa 2 mùa. Tại trạm  
liên tục trong vịnh Vân Phong, hàm lượng các kim loại cũng không thay đổi nhiều theo  
thời gian. Hiện nay, nồng độ các kim loại nặng trong nước vẫn đảm bảo cho mục đích  
nuôi trồng thủy sản, phát triển du lịch cũng như các mục đích khác.  
Trong môi trường trầm tích, hàm lượng các kim loại nặng trong trầm tích biến đổi  
trong phạm vi rộng, từ thấp đến tương đối cao. Tuy nhiên, hàm lượng các kim loại nặng  
trong trầm tích vẫn chưa có khả năng ảnh hưởng tới đời sống các loài thủy sinh.  
Trong sinh vật, sự giảm nhẹ của hàm lượng Cu trong Hàu; Zn và Cu trong lá cỏ  
biển là một dấu hiệu tốt của việc cải thiện chất lượng môi trường vịnh Vân Phong về mặt  
ô nhiễm kim loại nặng. Mặc dù vậy, vấn đề này cần nghiên cứu kỹ hơn nữa. Bên cạnh đó,  
việc giám sát và phòng ngừa sự ô nhiễm môi trường vẫn là việc làm luôn cần thiết, nhất là  
20  
hoạt động sửa chữa tàu biển của nhà máy Hyundai Vinashin mặc dù phạm vi ảnh hưởng  
của nhà máy này có thể chỉ giới hạn ở khu vực nhà máy.  
LỜI CẢM ƠN  
Tác giả xin gửi lời cảm ơn tới TS. Lã Văn Bài chủ nhiệm đề tài “Giám sát và phòng  
ngừa sự gia tăng ô nhiễm môi trường do hoạt động chuyển tải dầu, sửa chữa tàu thủy  
(Hyundai-Vinashin) và xây dựng Cảng trung chuyển Quốc tế tại vịnh Vân Phong, tỉnh  
Khánh Hoà, Th.S Nguyễn Xuân Hòa, chủ nhiệm đề án “Điều tra, thống kê diện tích, thành  
phần loài, đánh giá hiện trạng phân bố hệ sinh thái rừng ngập mặn, thảm cỏ biển và vai trò  
của chúng đối với kinh tế - xã hội, môi trường ở vùng biển ven bờ Khánh Hòa - Đề xuất  
giải pháp quản lý và sử dụng bền vững” và Th.S Lê Thu Hồng, giám đốc TTQT và TNMT  
Khánh Hòa đã cho phép sử dụng số liệu  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. APHA, 2005: Standard Methods for Analysis of Water and Waste Water. 21st Edition.  
Part 3000 metals. 3-1 – 3-22.  
2. Bộ KHCN, 1983: Qui phạm tạm thời điều tra địa chất địa mạo biển.  
3. Bộ Y tế, 1998. Danh mục tiêu chuẩn vệ sinh đối với lương thực, thực phẩm Việt Nam.  
Hà Nội. Tr. 66.  
4. Blackmore, G.1996. Ulva lactuca as bioindicator of heavy metal contamination in  
intertidal water Hong Kong. Bio-monitoring of heavy metal pollution in Honkong  
coastal waters, using barnacles. Asian Marine Biology 13:1-13.  
5. Bryan, G.W. 1984. Pollution due to heavy metals and their compounds. Marine  
Ecology Vol.5, Chapter 3. 1289-1402. Edited by Otto Kinne. Jonn Wiley and Sons,  
New York.  
6. CCME, 2003. Canadian Environmental Quality Guidelines. Online publication.  
7. Chau.C.W.,Tze.W.L.,  
and  
Cheung.S.G.,1999.  
Monitoring of metallic  
contaminanation in Perna viridis and sediments in Hong Kong Mariculture zones.  
ASEAN Marine Biology 16. Hong Kong University Press. 65-75.  
8. CNEXO, 1983. Manuel des analyses chimique en milieu marin. ISBN 2.90271.10.2.  
Brest, France, 395 pp.  
9. Huaxin. W, Lejun. Z, and Presley. B.J, 2000. Bioaccumulation of heavy metals in  
Oyster (Crassostrea virginica) tissue and sheel. Environmental geology. Vol 39.  
Number 11. 1216-1229.  
10. Hungspreugs, M., Dharmvanij,S., Utoomprookpoom, W. and Windom, H.L.,  
1991. A comparative study for the trace metals fluxes of the Ban PaKong and the Mae  
Klong river, Thailand-IOC workshop report No.79, pp 34-44.  
21  
11. Luoma, S.N.1990. Process affecting metal concentrations in estuarine and coastal  
marine sediment. heavy metals in marine environment. Editor. Furness, R.W., and  
Rainbow. CRC press. Boca Raton, Florida.pp 51-67.  
12. Qui chuẩn Việt Nam, 2008. Bộ Tài nguyên và Môi trường. 757-760.  
13. Phạm Văn Thơm, 1998. Đặc điểm Hóa môi trường vịnh Vân Phong-Bến Gỏi. Tuyển  
tập NCB. Tập 8. Tr 42-53.  
14. Pham Van Thom, Le Thi Vinh, 2000. Environmental quality of coastal waters in  
Southern Central and East South Vietnam - Occurrence of Red Tide phenomena.  
Collection of Marine Research Work, Vol X. 77-83.  
15. Pham Van Thom, Duong Trong Kiem, Nguyen Hong Thu, Pham Huu Tam, Le  
Thi Vinh, 2002. Environmental impacts of economic activities on quality of southwest  
part of Van Phong bay. Collection of Marine Research Work. Vol XII: 83-90.  
TM  
16. Le Thi Vinh and Ritchelita P.Galapate, 2005. Effects of NIX  
grains from  
Huyndai Vinashin-Shipyard on the Quality of Seawater, Sediment, and Oysters in Van  
Phong bay, Viet Nam. UPV Journal of Natural Sciences. 153-165.  
17. Lê Thị Vinh, Phạm Văn Thơm, Nguyễn Hồng Thu, Dương Trọng Kiểm, Phạm  
Hữu Tâm, 2006. Ảnh hưởng của Zn và Cu từ hạt Nix của nhà máy đóng tàu Huyndai-  
Vinashin tới chất lượng môi trường Mỹ Giang, vịnh Vân Phong.Tuyển tập nghiên cứu  
biển. Tập XV. 81-91.  
18. Lê Thị Vinh, 2007. Một số dẫn liệu về hàm lượng Hydrocarbon trong vịnh Vân Phong  
- Bến Gi (2002-2005). Tạp chí khoa học và Công nghệ biển. 2(T.7). 12-18.  
19. Ward, T.J. 1989. The accumulation and effects of metals in seagrass habitats. Biology  
of seagrases. Larkum, A.W.D., and Comb. A.J.Mc., and Shepherd, S.A.Chapter 23.  
Elsevier Science Publishers B.V. The Netherlands. 797-815.  
HEAVY METALS IN THE ENVIRONMENT  
OF VANPHONG - BENGOI BAY IN KHANH HOA PROVINCE  
LE THI VINH  
Summary: The paper represents some aspects on the heavy metals in water, sediment,  
oyster Saccostrea cucullata and seagrass (Thalassia hemprichii and Enhalus acoroides)  
at Vanphong - Bengoi bay. Results of surveys (performed in April - June 2009, dry season,  
and October - November 2009, rainy season) show that the heavy metal concentrations in  
water (Zn from 8.7 to 34.0g/l; Cu from 0.6 to 42g/l; Pb from 0.4 to 3.8g/l; Cd from  
0.04 to 0.32g/l and Cr from 1.1 to 3.1g/l) were not high. In sediment, heavy metal  
contents (Zn from 19.4 to 68.2g/g; Cu from 0.4 to 11.7g/g; Pb from 1.9 to 22.9g/g; Cd  
from 0.5 to 0.21g/g and Cr from 4.3 to 26.6g/g) were also not high compared to critical  
values in criteria for Aquatic Life Protection except sediment near Huyndai Vinashin-  
Shipyard (HVS). In oysters, heavy metal contents (Cu from 100 to 246 g/g wet weigh; Pb  
from 0.19 to 0.44g/g wet weigh; Cd from 0.4 to 0.83g/g wet weigh and Cr from 0.28 to  
1.03g/g wet weigh) were comparatively low compared to the maximum permissible levels  
22  
for seafood safety, except Cu, especially in My Giang - near HVS. Seagrass leafs also  
considerably accumulated heavy metals (Fe from 54.3 to 68.2g/g dry weigh; Zn from  
29.6 to 35.3g/g weigh; Cu from 5.0 to 5.4g/g weigh and Pb from 1.8 to 2.6g/g  
weigh).The data also indicated that there were no difference in heavy metal levels in water  
and oyster between two seasons.  
Ngày nhận bài: 27 - 07 - 2011  
Người nhận xét: Ths. Hoàng Trung Du  
23  
pdf 12 trang Mãnh Khiết 13/01/2024 1820
Bạn đang xem tài liệu "Kim loại nặng trong môi trường vịnh Vân Phong - Bến gỏi, Khánh Hòa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfkim_loai_nang_trong_moi_truong_vinh_van_phong_ben_goi_khanh.pdf