Trở lại vấn đề thể diện và Lịch sự trong giao tiếp

NGHIÊN CỨU  
TRỞ LẠI VẤN ĐỀ THỂ DIỆN VÀ LỊCH SỰ  
TRONG GIAO TIẾP  
Nguyễn Quang*  
Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN, Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam  
Nhận bài ngày 21 tháng 2 năm 2019  
Chỉnh sửa ngày 25 tháng 3 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 29 tháng 3 năm 2019  
Tóm tắt: Bài viết trình bày một cách có phê phán các cách nhìn nhận khác nhau về thể diện và lịch sự,  
đồng thời đưa ra các định nghĩa thao tác về chúng. Bài viết cũng nêu ra các giả thuyết về lí do tại sao phải  
lịch sự và về tính ưa chuộng hơn của lịch sự dương tính - lịch sự âm tính xét theo các thành tố giao tiếp (chu  
cảnh tình huống) và trong mối tương liên với các bình diện phạm trù khác (chu cảnh văn hóa) với khẳng  
định dứt khoát rằng các giả thuyết này chỉ là gợi ý cho nghiên cứu thực nghiệm nhằm chứng minh tính chân  
ngụy của chúng trong các chu cảnh tình huống và văn hóa cụ thể.  
Từ khóa: lịch sự, thể diện, giao tiếp, giả thuyết  
1
1. Thể diện và lịch sự  
‘Cái tha nhâncủa đối thể giao tiếp bao gồm:  
B1. Người ấy nghĩ mình là ai (Who the  
other thinks s/he is)  
Thể diện và lịch sự, theo chúng tôi, là  
những biểu hiện mang tính ý thức, là sản  
phẩm của bản chất ý thức (conscious nature)  
của con người và được biểu đạt trên cả ba bình  
diện nhận thức, xúc cảm và hành vi (cogniti-  
ve, affective and behavioral domains).  
B2. Người ấy thực sự là ai (Who s/he really is)  
B3. Ta nghĩ người ấy là ai (Who I think  
the other is)  
trong đó, theo chúng tôi, A2 là tổng hòa  
của A1 và A3 và B2 là tổng hòa của B1 và B3.  
Đây là xuất phát điểm cho cách nhìn nhận của  
chúng tôi về thể diện trong giao tiếp.  
Trong tương tác liên nhân, sự lựa chọn ‘cái  
tôi’ (the self) và ‘cái tha nhân’ (the other) để  
giao tiếp có ảnh hưởng rất lớn đến các quyết  
định về thể diện của ta và của đối tác cũng  
như về các kiểu lịch sự và chiến lược lịch sự  
sẽ được sử dụng trong tương tác đó. ‘Cái tôi’  
của chủ thể giao tiếp bao gồm:  
Richards et al. (1999: 135) có xu hướng  
thiên về cách nhìn nhận thể diện từ góc độ ‘cái  
tôi’ (A1, B1) khi họ cho rằng:  
Trong giao tiếp giữa hai người hoặc  
nhiều hơn, hình ảnh hay ấn tượng  
tích cực về bản thân mà người ta  
thể hiện hoặc có ý định thể hiện để  
các đối tác giao tiếp khác nhận thấy  
được gọi là thể diện. Trong bất cứ  
cuộc gặp mang tính xã hội nào, các  
đối tác giao tiếp đều cố gắng truyền  
A1. Ta nghĩ mình là ai (Who I think I am)  
A2. Ta thực sự là ai (Who I really am)  
A3. Đối tác nghĩ ta là ai (Who the other  
thinks I am)  
* ĐT.: 84-936048670  
Email: ngukwang@yahoo.com  
N. Quang/ Tạp chí Nghiên cꢀu Nưꢁc ngoꢂi, Tꢃp 35, Sꢄ 2 (2019) 1-14  
2
tải một hình ảnh tích cực về bản  
trong một cá nhân mà, đúng hơn  
là nằm trong dòng sự kiện của một  
cuộc gặp.  
thân mình, và hình ảnh này phản  
ánh các giá trị và đức tin của họ.  
Ví dụ, ‘thể diện’ của bà Smith trong  
một cuộc gặp cụ thể có thể là thể  
diện của ‘một người có giáo dục,  
trí hoạt, thông minh và tinh tế’. Nếu  
hình ảnh này không được các đối  
tác giao tiếp khác chấp nhận, tình  
cảm có thể sẽ bị tổn thương và hậu  
quả sẽ là sự ‘mất mặt’. Do vậy, các  
tiếp xúc xã hội giữa mọi người đòi  
hỏi phải có cái mà nhà xã hội học  
ngôn ngữ Goffman gọi là ‘công việc  
thể diện’ (face-work), có nghĩa là  
những nỗ lực của các đối tác giao  
tiếp nhằm truyền tải một thể diện  
tích cực và ngăn cản sự mất mặt.  
Việc nghiên cứu thể diện và công  
việc thể diện có vai trò quan trọng  
khi xem xét cách thức mà các ngôn  
ngữ diễn tả sự lịch sự.  
Goffman (1967) đưa ra cách nhìn tương  
thuận từ hai phía tương tác (A2, A3 – B2, B3)  
về thể diện. Tác giả cho rằng (1967: 5) thể  
diện là ‘giá trị xã hội tích cực mà một người  
tạo dựng hiệu quả cho bản thân theo cách  
người khác nhìn nhận anh ta đã tuân theo  
trong suốt một cuộc tiếp xúc cụ thể’.  
Bull (2008) nhận định rằng các cách tiếp  
cận gần đây có xu hướng nhìn nhận thể diện  
theo hướng động, phụ thuộc vào chu cảnh,  
được tạo dựng và thoái hủy trong quá trình giao  
tiếp. Với hậu diện đó, thể diện có thể được coi  
là một quan niệm mang tính cặp đôi (dyadic  
notion) bao gồm cả người nói và người nghe,  
hoặc diễn giả và khán giả. Nó được coi là ‘đặc  
tính nổi trội của các quan hệ được đặt trong tình  
huống’ (Sifianou và Bayraktaroglu, 2012).  
Cảm nhận học thuật và trải nghiệm liên  
văn hóa của chúng tôi gợi ra rằng, trong khi  
các cộng đồng (nhóm xã hội, tiểu văn hóa, nền  
văn hóa …) đề cao tư cách thành viên hoặc  
các nhà nghiên cứu xem xét thể diện theo tư  
cách thành viên có xu hướng nhìn nhận ‘Thể  
diện’ của một người như là hình ảnh (im-  
age) mà (những) người khác tạo dựng nên về  
người đó (who the other(s) think(s) s/he is)  
hoặc người đó nên sống theo (to which s/he  
should live up) (Matsumoto, 1988; Gu, 1990;  
Mao, 1994; Fucada và Asato, 2004 …) thì các  
cộng đồng đề cao tư cách cá nhân hoặc các  
nhà nghiên cứu xem xét thể diện theo tư cách  
cá nhân lại hình như thiên về cách nhìn nhận  
‘Thể diệncủa một người như là hình ảnh (tích  
cực) mà người ấy tạo ra (who s/he thinks s/he  
is) hoặc có ý định tạo ra (which s/he intends  
to show) (Brown & Levinson; 1987; Richards  
et al., 1999; Bull & Fetzer, 2010)…). Chúng  
tôi cho rằng, dựa trên luận điểm về ‘cái tôi’  
và ‘tha nhân’ trong giao tiếp cũng như xét  
theo bản chất động của chu cảnh tình huống  
và chu cảnh văn hóa, ‘Thể diện trong giao  
tiếp là hình ảnh tích cực mà ta (mong muốn)  
tạo dựng cho bản thân tương thuận với ấn  
tượng tích cực mà người khác có được về ta.  
Cùng nhìn nhận thể diện từ góc độ ‘cái  
tôi’ nhưng ít thiên hơn về ‘qui trình’ của giao  
tiếp mà chú ý hơn đến ‘quyền’ của cá nhân  
(A1,B1), Brown và Levinson (1987: 61) cho  
rằng thể diện là ‘hình ảnh bản thân trước  
công chúng mà mọi thành viên muốn dành  
cho mình’. Cách nhìn nhận này bị phê phán là  
mang tính cá nhân Tây phương (Western indi-  
vidualistic) chỉ chú trọng đến những ước vọng  
và nhu cầu tâm lí của các cá nhân. Khái niệm  
‘thể diện’ cần được hiểu theo nghĩa rộng hơn,  
mang tính xã hội và đạo lí và phải tính đến  
cả khía cạnh nhóm (Matsumoto, 1988; Mao,  
1994; Watts, 2003, Sifianou và Bayraktaroglu,  
2012…).  
Holtgraves (2002), tuy khẳng định ‘thể  
diện’ có thể được nhìn nhận như là ‘diện trình  
thành công của bản sắc’, nhưng lại cho rằng  
nó ngoại tại với mỗi cá nhân (A3 – B3). Theo  
tác giả, (2002: 39),  
Trong một cuộc gặp, việc không thể  
làm cho bản sắc của mình được chấp  
chuẩn là mất thể diện, việc làm cho  
bản sắc của mình được chấp chuẩn  
là có thể diện, việc duy trì bản sắc bị  
thách thức là giữ thể diện. Do vậy,  
thể diện là một cái gì đó không nằm  
Tạp chí Nghiên cꢀu Nưꢁc ngoꢂi, Tꢃp 35, Sꢄ 2 (2019) 1-14  
3
Thể diện của mỗi cá nhân được tạo dựng bởi  
cá nhân đó và được khẳng định, củng cố bởi  
những người khác trong quá trình tương tác  
ở các chu cảnh tình huống và chu cảnh văn  
hóa cụ thể’.  
tions), ngôn từ và/hoặc phi ngôn từ, khi tương  
tác. Ví dụ: khi đang chuyện trò với một người  
quen, A chợt ngáp (phản ứng sinh học). Để  
đền bù cho hành động đe dọa thể diện này, A  
hoặc phải lấy tay che miệng và quay mặt đi  
(đền bù phi ngôn từ) hoặc phải nói Xin lỗi/  
’Scuse me (đền bù ngôn từ).  
Brown & Levinson (1987) khẳng định  
rằng trong mỗi chúng ta đều tồn tại cái được  
gọi là thể diện, và vì có thể diện nên ta luôn  
có nhu cầu được giữ thể diện (face-wants).  
Thể diện gồm hai loại chính là ‘Thể diện âm  
tính ‘(Negative face) và ‘Thể diện dương tính’  
(Positive face). Thể diện âm tính được hiểu là:  
... sự mong muốn các hành động  
Có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về  
khái niệm lịch sự. Lakoff đưa ra một định  
nghĩa mang tính khái quát về lịch sự với tư  
cách là một hệ thống mà động cơ và mục đích  
của nó là tạo lập sự hoà hợp giữa các đối tác  
giao tiếp. Theo ông (trích từ Green, 1989:  
142), lịch sự là:  
của mình không bị ngăn cản.  
... một hệ thống các quan hệ liên  
nhân được thiết lập để tạo thuận  
Brown & Levinson (1987: 13)  
hoặc:  
lợi cho giao tiếp bằng cách tối thiểu  
hoá khả năng gây xung đột và đối  
đầu vốn ẩn tàng trong mọi mối  
... quyền đối với lãnh thổ, tự do  
hành động và không bị áp đặt.  
Fasold (1990: 160)  
tương giao của con người.  
Đó, theo chúng tôi, là ‘diện trình của tư  
cách cá nhân với mong muốn/kì vọng được là  
chính mình: được tự do làm điều mình thích,  
được tôn trọng, không bị làm phiền, không bị  
xâm phạm vào đời sống riêng tư...’.  
Định nghĩa này có đôi điều cần bàn thêm:  
- Hệ thống bao gồm các thành tố và các  
mối quan hệ. Vậy, ‘quan hệ liên nhânlà thành  
tố hay quan hệ? Nếu là thành tố thì quan hệ  
giữa các ‘quan hệ liên nhân’ được thể hiện thế  
nào? Nếu là quan hệ thì các thành tố trong hệ  
thống này là gì?  
Thể diện dương tính được diễn giải là:  
... sự mong muốn (ở một số khía  
cạnh) được chấp thuận.  
- Nếu lịch sự có chức năng ‘tối thiểu hoá  
khả năng gây xung đột và đối đầu’ thì gián  
tiếp nói chung và gián tiếp phi ước lệ nói riêng  
có được coi là lịch sự không?  
Brown & Levinson (1987: 13)  
hoặc:  
... hình ảnh bản thân nhất quán và  
tích cực mà người ta có và muốn  
được chí ít là một số người khác  
chấp nhận và đánh giá cao.  
Với cách nhìn nhận mang tính chức năng  
dụng học, Blum-Kulka (1987: 140) định nghĩa  
về “lịch sự” như sau:  
Fasold (1990: 160)  
Lịch sự, về cơ bản, là một chức năng  
của hành động đền bù mà hành  
động này có quan hệ tương liên với  
“gián tiếp”.  
Đó, theo chúng tôi, là ‘diện trình của tư  
cách thành viên với mong muốn/kì vọng được  
chấp nhận và chấp thuận: điều mình làm được  
người khác hưởng ứng, được chấp nhận là bộ  
phận của tổng thể (part of whole), được quan  
tâm, chia sẻ...’.  
Xét theo góc độ của cái ‘cái gì’ (the what)  
và cái ‘thế nào(the how), Blum-Kulka (1987:  
131) cho rằng lịch sự là ‘... đạt tới một sự cân  
bằng tương tác giữa hai nhu cầu: nhu cầu về  
sự trong sáng mang tính dụng học và nhu cầu  
tránh ép buộc’.  
Lịch sự luôn gắn kết với thể diện: các biểu  
đạt lịch sự chính là các dấu hiệu cho thấy, ở  
các mức độ khác nhau, rằng người nói ý thức  
được thể diện của người nghe và, do vậy, thực  
hiện các hành động đền bù (redressive ac-  
Định nghĩa này, về bản chất, là sự kết  
hợp giữa nguyên tắc ‹Minh› (Be clear) trong  
N. Quang/ Tạp chí Nghiên cꢀu Nưꢁc ngoꢂi, Tꢃp 35, Sꢄ 2 (2019) 1-14  
4
Lịch sự là (a) cách thức mà các  
ngôn ngữ diễn tả KHOẢNG CÁCH  
XÃ HỘI giữa những đối tác giao  
tiếp và CÁC QUAN HỆ VAI của họ;  
(b) cách thức tiến hành việc duy trì  
thể diện, có nghĩa là, việc nỗ lực xác  
lập, duy trì và giữ gìn thể diện trong  
suốt cuộc thoại ở một cộng đồng  
ngôn ngữ. Các ngôn ngữ đều khác  
nhau trong cách diễn tả lịch sự.  
bộ nguyên tắc của Grice (1975) và qui tắc  
‘Không áp đặt’ (Dont impose) trong bộ qui  
tắc của Lakoff (1977).  
Cách nhìn nhận của Blum-Kulka gợi ra  
đôi điều cần suy nghĩ thêm:  
- ‘Quan hệ tương liên với gián tiếp’ được  
hiểu là lịch sự và gián tiếp có quan hệ theo  
hướng tương thuận chứ không phải tương  
phản. Vậy ‘Em quét nhà đi’ (trực tiếp, thẳng  
thừng) và ‘Nhà cửa gì mà bẩn như chuồng lợn  
thế này’ (gián tiếp, vòng vo), phát ngôn nào  
(đỡ bất) lịch sự hơn?  
Khi nghiên cứu về lịch sự trong giao tiếp  
liên/giao văn hoá, chúng tôi nhận thấy rằng,  
trong rất nhiều trường hợp, ở cộng đồng ngôn  
ngữ-văn hoá này, một chiến lược lịch sự  
được sử dụng tỏ ra phù hợp, và do đó, làm  
cho người tiếp nhận cảm thấy dễ chịu, nhưng  
ở cộng đồng ngôn ngữ - văn hoá khác, chiến  
lược đó lại tỏ ra không phù hợp, và do vậy,  
người tiếp nhận (với các quan hệ vai tương  
ứng) lại cảm thấy khó chịu hoặc không thoải  
mái. Ví dụ: Khi đến dự bữa tiệc cuối năm ở  
nhà A, B – bạn A – mang theo một gói quà. A  
chép miệng (ngôn thanh-phi ngôn từ), lắc đầu,  
mắt hơi nheo lại (phi ngôn thanh-phi ngôn từ)  
rồi nói (ngôn từ): ‘Cậu cứ bày vẽ làm gì cho  
khổ. Lần sau đừng làm thế nữa nhé.’ rồi đặt  
gói quà lên chiếc bàn ở góc nhà. Nếu B là  
người Việt, chị ta sẽ cảm thấy dễ chịu trước  
kiểu ‘trách móc’ của cô bạn. Nhưng nếu là  
người Mĩ, chắc chắn B sẽ cảm thấy rất ‘không  
thoải mái’ với kiểu tiếp nhận (cả ngôn từ và  
phi ngôn từ) này. Trong văn hoá Anglophone,  
sẽ là phù hợp hơn nếu A nói: ‘Cảm ơn cậu’  
(Thank you), rồi mở gói quà ra xem và khen  
món quà được tặng.  
- Sự cân bằng tương tác giữa ‘nhu cầu về sự  
trong sáng mang tính dụng học và nhu cầu trá-  
nh ép buộc’, chính là sự cân bằng giữa cái ‘cái  
gì’ (the what) cần đạt được và cái ‘thế nào’ (the  
how) cần thể hiện trong giao tiếp. Các câu hỏi  
đặt ra là: có phải tất cả, hay đại đa số, các tình  
huống/sự kiện giao tiếp thường nhật đều cần đến  
‘sự trong sáng mang tính dụng học’ không (ví  
dụ: đôi trai gái thôn quê chuyện trò bên bờ ao  
trong một đêm trăng sáng)? ‘Nhu cầu tránh ép  
buộc’ có lẽ chỉ được thỏa mãn bằng một/ một số  
chiến lược của lịch sự âm tính chứ không phải  
tất cả các chiến lược lịch sự. Vậy các chiến lược  
không giúp thỏa mãn nhu cầu tránh ép buộc có  
được coi là các chiến lược lịch sự không?  
Yule (1997) lại nhìn nhận lịch sự với tư  
cách là phương tiện giữ gìn thể diện cho đối  
tác giao tiếp. Theo tác giả (1997: 60),  
... lịch sự, trong giao tiếp, có thể  
[...] được định nghĩa là phương tiện  
được sử dụng để tỏ ra là mình có lưu  
ý đến thể diện của người khác. Theo  
nghĩa này, lịch sự có thể được thực  
hiện trong những tình huống mang  
tính xa cách hay gần gũi về mặt xã  
hội. Tỏ ra là mình có lưu ý đến thể  
diện của người khác.  
Với nhận thức trên, chúng tôi coi lịch sự  
trong giao tiếp (xét theo cả kênh ngôn từ và  
phi ngôn từ, cả mã ngôn thanh và phi ngôn  
thanh) là một hành động hướng tới đối thể  
với lực dụng học (pragmatic force) [không  
chỉ đơn thuần là lực ngữ dụng (linguistically  
pragmatic)] tích cực và được tiếp nhận và/  
hoặc phản hồi tương ứng. Do vậy, xét theo  
bản chất động của chu cảnh tình huống và chu  
cảnh văn hóa, chúng tôi xin được đưa ra định  
nghĩa sau:  
Cùng chia sẻ góc độ này, nhưng Richards  
et al. (1999) lại nhìn nhận ‘lịch sựvới tư cách  
là cách thức, đồng thời, gắn kết khái niệm lịch  
sự với các nhân tố xã hội học (‘Khoảng cách’,  
‘Quyền lực’) và với ý thức về những khác biệt  
giao văn hoá trong cách thức giữ gìn thể diện  
trong giao tiếp. Theo các tác giả này (1999:  
281):  
Lịch sự là bất cứ hành động giao tiếp  
nào (ngôn từ và/hoặc phi ngôn từ)  
Tạp chí Nghiên cꢀu Nưꢁc ngoꢂi, Tꢃp 35, Sꢄ 2 (2019) 1-14  
5
được tạo lập một cách có chủ định  
và phù hợp nhằm làm cho người  
khác cảm thấy dễ chịu hơn hoặc bớt  
khó chịu hơn trong các chu cảnh  
tình huống và văn hóa cụ thể.  
[Politeness is any communicative  
act (verbal and/or nonverbal) which  
is intentionally and appropriately  
meant to make co-interactant(s)  
feel better or less bad in particular  
contexts of situation and culture]  
hành vi chính trị (politic behaviour)  
[hành vi được đại đa số chấp nhận –  
NQ]. Nó cần giúp ta đánh giá được  
những thời khắc đó như những  
tiêu điểm có ý nghĩa trong một quá  
trình xã hội trong đó những dạng  
thức được thể chế hoá của diễn  
ngôn được tái tạo và tái phục dựng,  
nhưng nó cũng cần giúp ta kiếm tìm  
các khía cạnh phổ niệm của (bất)  
lịch sự trong phạm vi tương tác xã  
hội cho dù nhóm văn hoá-xã hội  
được xét là nhóm nào đi nữa.  
‘Lịch sự’ là một trong những phạm trù  
được quan tâm hàng đầu trong nghiên cứu  
giao tiếp nội văn hoá và liên/giao văn hoá.  
Tầm quan trọng của nó là không thể chối bỏ.  
Gumperz (trích từ Brown & Levinson, 1987:  
XIII), đã khẳng định:  
Chúng tôi đoán định rằng, nhìn chung,  
những dân tộc, cộng đồng càng khác nhau  
về các ẩn tàng văn hoá (cultural hiddens) và  
càng ít tiếp xúc liên văn hoá với nhau thì các  
nhìn nhận, hành vi và đánh giá về lịch sự của  
họ lại càng khác nhau, thậm chí đối lập nhau.  
Tuy nhiên, theo chúng tôi, cũng không thể phủ  
nhận được rằng có những phổ niệm về lịch sự,  
những phổ niệm mang đặc tính ‘tính người’  
dựa trên bản chất kép [sinh thể xã hội (social  
being) và sinh thể có ý thức (conscious be-  
ing)] và tư cách kép [tư cách cá nhân (individ-  
ualship) và tư cách thành viên (membership)]  
của ‘nhân sinh thể’ (human being).  
Lịch sự là vấn đề mang tính cơ bản  
trong việc tạo ra trật tự xã hội và là  
một điều kiện tiên quyết của sự hợp  
tác của con người để bất cứ một lí  
thuyết nào một khi đã đưa ra được  
một sự hiểu biết về hiện tượng này  
cũng đồng thời là đã tiếp cận được  
các phông nền của đời sống xã hội  
của con người.  
Do các cộng đồng ngôn ngữ-văn hoá khác  
nhau sở hữu các hệ thống giá trị, quan niệm,  
đức tin, thói quen, cấm kị, phong cách giao  
tiếp... khác nhau, ở các mức độ khác nhau, với  
liều lượng và cách thức biểu hiện khác nhau  
nên các thành viên của các cộng đồng đó có  
các nhìn nhận, các hành vi và các đánh giá  
khác nhau về phép lịch sự. Watts (2003: 27)  
có lí khi cho rằng:  
Có nhiều khuynh hướng lí thuyết khác nhau  
về lịch sự và các lí thuyết gia của các khuynh  
hướng này, với các cách diễn đạt khác nhau và  
ở các mức độ khác nhau, đều khẳng định tính  
phổ niệm trong lí thuyết của mình. Tựu trung,  
có bốn khuynh hướng/quan điểm chính:  
- Khuynh hướng/Quan điểm chuẩn mực  
xã hội (social-norm/ normative) nhìn nhận  
lịch sự theo các chuẩn mực và thông lệ xã hội,  
nhấn mạnh vào cái ‘nên là(what it should be)  
và tư cách thành viên của con người (ví dụ:  
Khi hỏi tuổi người già cả, sẽ là lịch sự nếu ta  
sử dụng nhuận ngữ nghi lễ hóa tiền mã hóa/  
pre-coded ritualised gambit ‘Dạ, ... hỏi khí  
không phải, ...’).  
Một lí thuyết về (bất) lịch sự ngôn ngữ  
cần tập trung vào các cách thức theo  
đó các thành viên của một nhóm xã  
hội nhìn nhận vấn đề (bất) lịch sự khi  
họ tham gia vào các tương tác ngôn  
từ giao tiếp-xã hội. Nói cách khác,  
nó cần quan tâm đến vấn đề lịch sự  
nhất cấp (hay lịch sự 1) (first-order  
politeness) [các quan niệm mang tính  
đời thường về lịch sự – NQ] và cần  
giúp người nghiên cứu có được các  
phương tiện nhận diện và diễn giải  
những thời điểm đánh giá, trong đó  
những người tham gia phản ứng  
với việc hành vi ngôn ngữ vượt quá  
- Khuynh hướng/Quan điểm hợp đồng hội  
thoại (conversational-contract) nhìn nhận lịch  
sự theo sự tuân thủ các quyền và nghĩa vụ (có  
thể được điều chỉnh trong quá trình tương tác)  
của các đối tác giao tiếp dựa trên bốn bình diện  
N. Quang/ Tạp chí Nghiên cꢀu Nưꢁc ngoꢂi, Tꢃp 35, Sꢄ 2 (2019) 1-14  
6
thông lệ, thể chế, tình huống và lịch sử. Mặc  
dù tư cách thành viên của các đối tác giao tiếp  
cũng như chuẩn mực xã hội của tính lịch sự  
không được/bị quá đề cao và tư cách cá nhân  
của họ cũng như chu cảnh tình huống của giao  
tiếp đã được lưu xét nhưng, như Watts (2003)  
đã chỉ ra, các điều kiện xã hội giúp cho việc  
điều chỉnh và tái lập các quyền và nghĩa vụ  
vẫn chưa được nêu rõ.  
tính) của đối tác giao tiếp, ta có thể, ngoài kiểu  
nói bóng gió, không công khai (off-record), đi  
theo một trong hai hướng sau nhằm tránh hoặc  
giảm việc làm cho họ phật ý hay mất thể diện:  
a. Sử dụng ‘Lịch sự dương tính’ (Positive  
politeness), hay ‘Lịch sự gần gũi’ (Close poli-  
teness), ‘Lịch sự ấm(Warm politeness), ‘Lịch  
sự thân mật’ (Intimate politeness);  
b. Sử dụng ‘Lịch sự âm tính’ (Negative  
politeness), hay ‘Lịch sự xa cách’ (Distancing  
politeness), ‘Lịch sự mát’ (Cool politeness),  
‘Lịch sự tôn trọng’ (Deference politeness);  
- Khuynh hướng/Quan điểm phương  
châm hội thoại (conversational-maxim) nhìn  
nhận lịch sự trên cơ sở cân bằng giữa nhu cầu,  
kì vọng của người nói và cảm nhận, thể diện  
của người nghe, giữa các phương châm hợp  
tác ‘Chân’ (Quality), ‘Túc’ (Quantity), ‘Trực’  
(Relevance hay Relation), ‘Minh’ (Manner)  
và phương châm lịch sự. Việc vi phạm các  
phương châm hợp tác và việc tỏ ra ý thức  
được sự vi phạm đó thông qua các hình thức  
đền bù (redresses), cả ngôn từ và phi ngôn từ,  
sẽ tạo ra hiệu quả lịch sự [ví dụ: I may be right  
or I may be wrong, but it seems to me that  
hes not the right man for the job/ Có thể tôi  
đúng mà cũng có thể tôi sai, nhưng theo tôi thì  
hình như anh ấy không hợp với việc này: Vi  
phạm phương châm ‘Chân’: không giả mạo,  
chân thực)]. Khuynh hướng này nhằm vào  
người/hành vi tương tác và nhấn mạnh vào cái  
‘nên là’ (what it should be) hơn là cái ‘thực là’  
(what it really is).  
Theo Bentahila & Davies (1989: 101),  
Lịch sự dương tính là ‘một nỗ lực tỏ ra quan  
tâm tới lợi ích của người khác và một mong  
muốn thoả mãn nhu cầu của họ’.  
Lịch sự dương tính, theo cách hiểu của  
Brown & Levinson (1990: 101), là:  
... một sự đền bù cho thể diện dương  
tính của người nghe, cho mong muốn  
thường trực của người ấy là các nhu  
cầu của người ấy (hoặc các hành  
động, các đòi hỏi, các giá trị phát  
xuất từ chúng) cần được coi là điều  
đáng mong muốn. Sự đền bù được  
hiện lộ ở việc một phần thoả mãn  
mong muốn đó bằng cách thể hiện  
rằng các nhu cầu của bản thân ta  
(hoặc một vài trong số các nhu cầu  
đó), ở một số khía cạnh, là tương tự  
như các nhu cầu của người nghe.  
- Khuynh hướng/Quan điểm giữ thể diện  
(face-saving) lấy trung tâm là (a) thể diện bao  
gồm thể diện dương tính và thể diện âm tính,  
(b) hành vi tác hại là những hành động đe dọa  
thể diện và (c) các cơ chế, chiến lược, tiểu  
chiến lược lịch sự và ngầm ẩn được sử dụng  
để né tránh hoặc giảm thiểu tính đe dọa thể  
diện của các hành động đó.  
Yule (1997: 62) làm rõ ‘hình hài’ của khái  
niệm ‘lịch sự dương tính’ bằng cách kết gắn nó  
với khái niệm ‘đoàn kết(solidarity) hay sự thân  
tình, tính thân hữu, một hàm chỉ gián tiếp của  
sự nhoà hoà về quyền lực và gần gụi về khoảng  
cách giữa các đối tác giao tiếp. Theo ông,  
Một hành động giữ gìn thể diện có  
Theo Brown & Levinson (1987), khi phải  
đương đầu với một hành động đe doạ thể diện,  
nói cách khác, khi phải đưa ra một (vài) phát  
ngôn mà (những) phát ngôn đó, ở các mức độ  
khác nhau, có khả năng tạo ra ảnh hưởng tiêu  
cực cho thể diện (hoặc dương tính hoặc âm  
liên quan đến lịch sự dương tính của  
ta sẽ có xu hướng tỏ ra thân tình; nó  
nhấn mạnh rằng cả hai người đều  
mong muốn cùng một điều, và rằng  
họ có cùng một mục đích. Đây cũng  
được gọi là lịch sự dương tính.  
Tạp chí Nghiên cꢀu Nưꢁc ngoꢂi, Tꢃp 35, Sꢄ 2 (2019) 1-14  
7
... một hành động đền bù cho thể  
diện âm tính của người nghe: nhu  
cầu của anh ta rằng việc tự do hành  
động của mình không bị ngăn chặn  
và sự quan tâm của mình không bị  
cản trở.  
Chúng tôi cho rằng, xét theo bản chất động  
của chu cảnh tình huống và chu cảnh văn hóa,  
Lịch sự dương tính là bất cứ hành  
động giao tiếp nào (ngôn từ và/  
hoặc phi ngôn từ) được tạo lập một  
cách có chủ định và phù hợp nhằm  
thể hiện sự quan tâm của người  
nói đến người nghe, và do vậy,  
giúp nâng cao tình thân hữu giữa  
họ trong các chu cảnh tình huống  
và văn hóa cụ thể.  
Tuy nhiên, Yule lại kết gắn khái niệm ‘Lịch  
sự âm tínhvới ngữ nghĩa quyền lực (power se-  
mantic), một hàm chỉ gián tiếp về tính phi thân  
hữu, sự tôn trọng và vẻ xa cách giữa các đối tác  
giao tiếp. Theo tác giả (1997: 62),  
[Positive  
politeness  
is  
any  
Một hành động giữ gìn thể diện có  
liên quan đến lịch sự âm tính của  
ta sẽ có xu hướng tỏ ra tôn trọng,  
nhấn mạnh vào tầm quan trọng về  
thời gian và sự quan tâm của người  
khác, và thậm chí bao gồm cả sự xin  
lỗi vì đã áp đặt hoặc xen ngang. Đây  
communicative act (verbal and/or  
nonverbal) which is intentionally  
and appropriately meant to show the  
speaker’s concern to the addressee,  
thus, enhancing the sense of  
solidarity between them in particular  
contexts of situation and culture].  
cũng được gọi là lịch sự âm tính.  
Lịch sự dương tính có thể được nôm na  
hiểu là các biểu hiện ‘tỏ ra quan tâm đến người  
khác’. Xét theo hệ hình khoảng cách và quyền  
lực, nó là việc giảm đi ý thức khoảng cách và  
ý nghĩa quyền lực giữa người nói và người  
nghe, tạo lập ngữ nghĩa thân hữu (solidarity  
semantic) giữa các đối tác giao tiếp.  
Theo chúng tôi, xét theo bản chất động  
của chu cảnh tình huống và chu cảnh văn hóa,  
Lịch sự âm tính là bất cứ hành  
động giao tiếp nào (ngôn từ và/  
hoặc phi ngôn từ) được tạo lập  
một cách có chủ định và phù hợp  
nhằm tỏ ra rằng người nói không  
muốn xâm phạm vào vùng riêng tư  
của người nghe, và do vậy, duy trì  
khoảng cách giữa họ trong các chu  
cảnh tình huống và văn hóa cụ thể.  
[Negative politeness is any  
communicative act (verbal and/or  
nonverbal) which is intentionally  
and appropriately meant to show  
that the speaker does not want to  
impinge on the addressee’s privacy,  
thus, maitaining the sense of  
distance between them in particular  
contexts of situation and culture].  
Hình 1. Lịch sự dương tính trong tương  
tác giữa A và B  
Lịch sự âm tính có thể được nôm na hiểu  
là các biểu hiện ‘tôn trọng và tránh thọc mũi  
vào chuyện riêng tư của người khác’. Xét theo  
hệ hình khoảng cách và quyền lực, nó là việc  
duy trì ý thức khoảng cách và ý nghĩa quyền  
lực giữa người nói và người nghe, tạo lập ngữ  
nghĩa quyền lực (power semantic) giữa các đối  
tác giao tiếp theo hướng có lợi cho người nghe.  
Về lịch sự âm tính, theo Bentahila & Da-  
vies (1989: 101),  
Lịch sự âm tính có thể tóm lược một  
cách ngắn gọn là chú tâm tới việc  
làm sao đừng áp đặt lên người khác  
hoặc hạn chế tự do của họ, nhưng có  
giữ khoảng cách.  
Theo định nghĩa của Brown và Levinson  
(1990: 129), lịch sự âm tính là:  
N. Quang/ Tạp chí Nghiên cꢀu Nưꢁc ngoꢂi, Tꢃp 35, Sꢄ 2 (2019) 1-14  
8
ở đây là chiến lược nào tỏ ra phù hợp hơn, có  
được lực ngôn trung và/hoặc ngôn tác tích cực  
hơn trong tình huống cụ thể mà thôi.  
Tính phù hợp cũng như sự ưu tiên cho  
các loại chiến lược lịch sự âm tính và dương  
tính mang tính đặc thù văn hoá (xét theo giao  
tiếp liên văn hoá) và đặc thù nhóm xã hội và  
tiểu văn hoá (xét theo giao tiếp nội văn hoá)  
rất cao, và phụ thuộc rất nhiều vào các thành  
tố giao tiếp như các thông số nhân thân của  
người tham thoại, quan hệ và quyền lực giữa  
Hình 2. Lịch sự âm tính trong tương tác  
họ, thái độ và tình cảm cần thể hiện, mục đích  
giao tiếp, chủ đề giao tiếp, hình thức và nội  
dung thông điệp, khung cảnh giao tiếp... Một  
chiến lược lịch sự có thể thành công hoặc rất  
thành công trong một tình huống hoặc cộng  
đồng này, nhưng lại tỏ ra không mấy thành  
công hay thậm chí thất bại trong một tình  
huống hoặc cồng đồng khác.  
giữa A và B  
Xét theo chu cảnh văn hóa, những nhóm  
xã hội, tiểu văn hóa và nền văn hoá coi trọng  
tính cộng đồng thường đề cao sự quan tâm  
(concern) lẫn nhau giữa các thành viên. Do  
vậy, việc bày tỏ sự quan tâm của mình đối với  
chuyện riêng tư của người khác dễ dàng được  
coi là một hành vi lịch sự (dương tính). Trong  
khi đó, những nhóm xã hội, tiểu văn hóa và  
nền văn hoá thiên về cá nhân lại thường đề cao  
việc tôn trọng tính riêng tư của mỗi cá nhân.  
Do đó, việc tránh xâm phạm vào lãnh địa cá  
nhân của người khác được hiểu là một biểu  
hiện của lịch sự (âm tính). Trong các tương  
tác chính ngôn và phi hàm chỉ, chính những  
diễn giải (interpretations) khác nhau về lịch  
sự là nguồn gốc của các xung đột văn hoá tiềm  
năng giăng bẫy các thành viên của các cộng  
đồng khác nhau khi tham gia vào các hoạt  
động giao tiếp liên văn hoá.  
2. Tại sao phải lịch sự?  
Chúng tôi xin đưa ra giả thuyết sau:  
Con người là sinh thể vốn tiên thiên mang  
bản chất kép: vừa là sinh thể xã hội (soci-  
al beings) vừa là sinh thể ý thức (conscious  
beings).  
Với bản chất là sinh thể xã hội, và cũng  
như các loài vật có chung bản chất trong thế  
giới động vật (loài ong, loài kiến, loài vượn...),  
con người phải tương tác với các thành viên  
khác trong xã hội (thu nhỏ và/hoặc mở rộng)  
của mình. Nói cách khác, bản chất xã hội buộc  
con người, bằng cách này hay cách khác, bằng  
phương tiện này hay phương tiện khác, phải  
tương tác (interacting).  
Tuy nhiên, xét theo chu cảnh tình huống,  
điều cần được lưu ý là chúng ta nên tránh  
kiểu kết luận mang tính khuôn mẫu hoá (ste-  
reotyping) rằng ’lịch sự quan tâm’ (hay ’lịch  
sự dương tính’) chỉ thuộc về cộng đồng ngôn  
ngữ-văn hoá này và ’lịch sự riêng tư’ (hay  
’lịch sự âm tính’) chỉ xuất hiện trong cộng  
đồng ngôn ngữ-văn hoá kia. Bất cứ một hành  
động lời nói hay một hành động, một sự kiện,  
một tình huống giao tiếp nội văn hoá nào cũng  
đều có khả năng viện đến các chiến lược của  
lịch sự dương tính hay lịch sự âm tính. Vấn đề  
Với bản chất là sinh thể ý thức, và hoàn  
toàn khác với các loài vật trong thế giới tự  
nhiên vốn được/bị coi là không có ý thức (một  
số nhà nghiên cứu đặt vấn đề nghi ngờ luận  
điểm này nhưng chưa tìm được bằng chứng  
thuyết phục để phản bác), con người thực hiện  
các hoạt động lí tính của mình. Nói cách khác,  
bản chất ý thức bắt buộc con người phải tư  
duy (thinking).  
Tạp chí Nghiên cꢀu Nưꢁc ngoꢂi, Tꢃp 35, Sꢄ 2 (2019) 1-14  
9
Trong quá trình tương tác (tương tác nội  
nhân, tương tác liên nhân, tương tác nhóm,  
tương tác công chúng, tương tác trực diện,  
tương tác qua phương tiện...) và tư duy (tri  
nhận, so sánh, đối chiếu, tổng hợp, phân  
tích...), con người nhận diện được chính bản  
thân mình và những người khác; có nghĩa là  
con người có được tự niệm (self-concept) và  
tha niệm (other-concept).  
Trong tương tác, mong muốn/kì vọng  
được chấp nhận và chấp thuận như một thành  
viên (họ hàng, bạn bè, đồng môn, đồng niên,  
đồng nghiệp, đồng hương, đồng bào...), được  
quan tâm và chia sẻ... góp phần tạo dựng thể  
diện dương tính (positive face). Trong khi đó,  
mong muốn/kì vọng được là chính mình, được  
tự do làm điều mình thích, được tôn trọng,  
không bị làm phiền, không bị thọc mũi vào  
đời sống riêng tư... góp phần tạo dựng thể diện  
âm tính (negative face).  
Trong quá trình tự niệm (self-concep-  
tualisation) và tha niệm (other-conceptuali-  
sation) ấy, con người nhận thấy ở mình và  
những người khác có một điểm chung: họ  
đồng thời vừa là những cá nhân khu biệt (anh  
A khác với chị B, ông C...) vừa là những  
thành viên hòa đồng (của gia đình, lớp học,  
cơ quan, bản quán...). Nói cách khác, họ đều  
có chung tư cách kép (double status) là tư  
cách thành viên (membership) và tư cách cá  
nhân (individualship).  
Nhằm thỏa mãn các mong muốn và kì  
vọng của thể diện dương tính, các cơ chế,  
chiến lược và tiểu chiến lược lịch sự dương  
tính (positive politeness) được hình thành và  
sử dụng. Nhằm đáp ứng các mong muốn và  
kì vọng của thể diện âm tính, các cơ chế, chiến  
lược và tiểu chiến lược lịch sự âm tính (nega-  
tive politeness) được tạo ra và thực hiện.  
Có thể minh họa giả thuyết này theo sơ  
đồ sau:  
Hình 3. Căn nguyên của lịch sự  
N. Quang/ Tạp chí Nghiên cꢀu Nưꢁc ngoꢂi, Tꢃp 35, Sꢄ 2 (2019) 1-14  
10  
3. Các giả thuyết về lịch sự dương tính và  
lịch sự âm tính trong giao tiếp  
tố giao tiếp và các bình diện phạm trù. Tuy  
nhiên, cần khẳng định dứt khoát rằng các giả  
thuyết này chỉ được coi là những ‘gợi mởcho  
các nghiên cứu, đặc biệt là các nghiên cứu  
thực nghiệm mang tính ứng dụng, nhằm tìm  
ra tính chân ngụy của giả thuyết trong các chu  
cảnh tình huống và chu cảnh văn hóa cụ thể  
được xem xét mà thôi.  
Dựa vào các kết quả nghiên cứu thực  
nghiệm của chúng tôi và các nghiên cứu sinh,  
học viên cao học, các nhà nghiên cứu trong  
lĩnh vực quan yếu, cùng các quan sát và trải  
nghiệm song/đa văn hóa, chúng tôi xin được  
đưa ra các giả thuyết sau xét theo các thành  
3.1. Xét theo các thành tố giao tiếp  
GIẢ THUYẾT  
CÁC THÀNH TỐ  
TÁC ĐỘNG  
Số  
TT  
Xét theo chính ngôn và với các biến tố khác luôn được trung tính  
hóa (loại trừ đồng tác)  
Nhìn chung, người già và trẻ em thường thiên về lịch sự dương tính hơn  
người lớn.  
1
2
Tuổi tác  
Giới tính  
Nhìn chung, nam giới thường tỏ ra lịch sự theo âm tính hơn nữ giới.  
Nhìn chung,  
những người làm việc trong các cơ quan, tổ chức thường có xu  
hướng lịch sự âm tính hơn những người làm nghề tự do;  
những người làm khoa học tự nhiên và kinh doanh thường có  
xu hướng lịch sự âm tính hơn những người làm khoa học xã hội  
và dịch vụ;  
3
Nghề nghiệp  
những người đã đi làm thường có xu hướng lịch sự âm tính hơn  
những người chưa đi làm.  
Nhìn chung, những người sống ở nông thôn thường thiên về lịch sự  
dương tính hơn những người sống ở thành phố.  
4
5
6
Nơi cư ngụ  
Nhìn chung, những người đã có gia đình thường tỏ ra lịch sự theo dương  
tính hơn những người chưa có gia đình.  
Tình trạng hôn nhân  
Trình độ học vấn  
Nhìn chung, những người có trình độ học vấn cao thường có xu hướng  
lịch sự âm tính hơn những người có trình độ học vấn thấp.  
Nhìn chung, những người giỏi các ngoại ngữ Âu châu thường thiên về  
lịch sự âm tính hơn những người giỏi các ngoại ngữ Á châu hoặc không  
biết ngoại ngữ.  
Trình độ ngoại ngữ và  
văn hóa  
7
8
Nhìn chung, khi nói chuyện với những người có quan hệ ruột thịt, người  
ta thường tỏ ra lịch sự theo dương tính hơn so với khi nói chuyện với  
những người không phải là ruột thịt.  
Quan hệ ruột già  
Nhìn chung, khi nói chuyện với những người có quan hệ thân thiết, người  
9
Khoảng cách xã hội ta thường có xu hướng lịch sự dương tính hơn so với khi nói chuyện với  
những người quen sơ hoặc những người lạ.  
Nhìn chung, khi nói chuyện với những người có địa vị xã hội cao hơn,  
10  
11  
Quyền lực địa vị  
người ta thường thiên về lịch sự âm tính hơn so với khi nói chuyện với  
những người có địa vị xã hội ngang bằng hoặc thấp hơn.  
Nhìn chung, khi nói chuyện với những người nhiều tuổi hơn, người ta  
thường tỏ ra lịch sự theo âm tính hơn so với khi nói chuyện với những  
người ngang tuổi hoặc trẻ hơn.  
Quyền lực tuổi tác  
Tạp chí Nghiên cꢀu Nưꢁc ngoꢂi, Tꢃp 35, Sꢄ 2 (2019) 1-14  
11  
Nhìn chung, khi nói chuyện với những người khác giới, người ta thường có xu  
hướng lịch sự âm tính hơn so với khi nói chuyện với những người cùng giới.  
12  
13  
Quyền lực giới tính  
Quyền lực học vấn  
Nhìn chung, trong những tình huống đặc thù, khi nói chuyện với những  
người có trình độ học vấn/bằng cấp chuyên môn cao hơn, người ta thường  
thiên về lịch sự âm tính hơn so với khi nói chuyện với những người có  
cùng trình độ học vấn/bằng cấp chuyên môn hoặc thấp hơn.  
Nhìn chung, trong những tình huống đặc thù, khi nói chuyện với những  
người có khả năng tài chính dồi dào hơn, người ta thường tỏ ra lịch sự  
theo âm tính hơn so với khi nói chuyện với những người có khả năng tài  
chính tương đương hoặc thấp hơn.  
14  
Quyền lực kinh tế  
Quyền lực cơ bắp  
Nhìn chung, trong những tình huống đặc thù, khi nói chuyện với những  
người có sức mạnh cơ bắp lớn hơn, người ta thường có xu hướng lịch sự  
âm tính hơn so với khi nói chuyện với những người có sức mạnh cơ bắp  
tương đương hoặc thấp hơn.  
15  
16  
Nhìn chung, khi nói chuyện với những người có danh tiếng xã hội cao  
Quyền lực danh tiếng hơn, người ta thường thiên về lịch sự âm tính hơn so với khi nói chuyện  
với những người có danh tiếng xã hội tương đương hoặc thấp hơn.  
Nhìn chung, khi sung sướng, người ta thường tỏ ra lịch sự theo dương  
tính hơn so với lúc bình thường.  
17  
18  
19  
Trạng thái tâm lí  
Nhìn chung, những người có khí chất hoạt hay thái hoạt thường có xu hướng  
Khí chất  
lịch sự dương tính hơn so với những người có khí chất trầm hay thái trầm.  
Nhìn chung, khi muốn thể hiện tình cảm tích cực (yêu thương, thân thiết, thân  
Tình cảm  
mật…), người ta thường thiên về lịch sự dương tính hơn so với lúc bình thường.  
Nhìn chung, khi muốn biểu lộ thái độ tích cực (kính trọng, tôn trọng, coi  
20  
Thái độ  
trọng…), người ta thường tỏ ra lịch sự theo âm tính hơn so với khi muốn  
biểu lộ thái độ trung tính.  
Nhìn chung, khi mục đích giao tiếp là có lợi cho bản thân, người ta  
thường có xu hướng lịch sự âm tính hơn so với khi mục đích giao tiếp là  
có lợi cho đối tác.  
21  
22  
23  
Mục đích giao tiếp  
Đề tài giao tiếp  
Nhìn chung, khi đề cập đến những đề tài an toàn, người ta thường thiên về  
lịch sự dương tính hơn so với khi đề cập đến những đề tài không an toàn.  
Nhìn chung, khi sử dụng mã ngôn từ và kênh phi ngôn thanh (viết), người  
Hình thức giao tiếp ta thường tỏ ra lịch sự theo âm tính hơn so với khi sử dụng mã ngôn từ  
và kênh ngôn thanh (nói).  
Nhìn chung, khi đề cập đến những vấn đề mà cả chủ thể và đối thể giao  
tiếp cùng quan tâm, người ta thường có xu hướng lịch sự dương tính hơn  
so với khi đề cập đến những vấn đề mà cả chủ thể và đối thể giao tiếp  
cùng không quan tâm.  
24  
25  
Nội dung giao tiếp  
Nhìnchung,khiviệnđếnkiểugiaotiếplnghi(ceremonialcommunication)  
và giao tiếp thông tin (informative communication), người ta thường  
thiên về lịch sự âm tính hơn so với khi viện đến kiểu giao tiếp giải  
trí (entertaining communication), giao tiếp thuyết phục (persuasive  
communication) và giao tiếp biểu cảm (affective communication).  
Loại giao tiếp  
Nhìn chung, với khung cảnh giao tiếp trang trọng, người ta thường tỏ ra lịch  
sự theo âm tính hơn so với khi tương tác trong khung cảnh phi trang trọng.  
26  
27  
Khung cảnh giao tiếp  
Thời gian giao tiếp  
Nhìn chung, khi thời gian dành cho giao tiếp hạn hẹp, người ta thường có  
xu hướng lịch sự âm tính hơn so với khi có thời gian giao tiếp dông dài.  
N. Quang/ Tạp chí Nghiên cꢀu Nưꢁc ngoꢂi, Tꢃp 35, Sꢄ 2 (2019) 1-14  
12  
3.2. Xét theo mối tương liên với các bình diện phạm trù khác  
GIẢ THUYẾT  
CÁC THÀNH TỐ  
TÁC ĐỘNG  
Số  
TT  
Xét theo chính ngôn và với các bình diện phạm trù khác luôn được  
trung tính hóa (loại trừ đồng hiện)  
Nhìn chung, các cộng đồng (các nhóm xã hội, các tiểu văn hóa, các  
Chủ quan tính - Khách văn hóa tộc người, các nền văn hóa) thiên về chủ quan tính thường có  
1
quan tính  
xu hướng lịch sự dương tính hơn so với các cộng đồng thiên về khách  
quan tính.  
Nhìn chung, các cộng đồng thiên về giao tiếp gián tiếp thường tỏ ra lịch  
sự theo dương tính hơn so với các cộng đồng thiên về giao tiếp trực tiếp.  
2
3
Trực tiếp - Gián tiếp  
Nhìn chung, các cộng đồng thiên về giao tiếp chính xác thường có xu  
hướng lịch sự âm tính hơn so với các cộng đồng thiên về giao tiếp phi  
chính xác.  
Chính xác - Phi chính  
xác  
Nhìn chung, các cộng đồng thiên về qui thức thường tỏ ra lịch sự theo  
âm tính hơn so với các cộng đồng thiên về phi qui thức.  
4
5
Qui thức - Phi qui thức  
Thiên về nhóm - Thiên Nhìn chung, các cộng đồng thiên về nhóm thường có xu hướng lịch sự  
về cá nhân  
dương tính hơn so với các cộng đồng thiên về cá nhân.  
Nhìn chung, các cộng đồng thiên về giao tiếp chu cảnh cao thường tỏ  
ra lịch sự theo âm tính hơn so với các cộng đồng thiên về giao tiếp chu  
cảnh thấp. Cụ thể:  
Các cộng đồng thiên về kiểu giao tiếp cân nhắc cao (high  
considerateness) thường tỏ ra lịch sự theo âm tính hơn so với các  
cộng đồng thiên về kiểu giao tiếp nhập cuộc cao (high involvement).  
Các cộng đồng thiên về kiểu cấu trúc nhập thoại ào ạt (bowling  
style) thường tỏ ra lịch sự theo dương tính hơn so với các cộng  
đồng thiên về kiểu cấu trúc nhập thoại lần lượt (ping-pong style).  
Chu cảnh thấp - Chu  
cảnh cao  
6
Nhìn chung, các cộng đồng thiên về giao tiếp động thường có xu hướng  
lịch sự dương tính hơn so với các cộng đồng thiên về giao tiếp tĩnh.  
7
8
9
Động - Tĩnh  
Rườm - Kiệm  
Nhìn chung, các cộng đồng thiên về giao tiếp rườm ngôn thường tỏ ra lịch  
sự theo dương tính hơn so với các cộng đồng thiên về giao tiếp kiệm ngôn.  
Nhìn chung, các cộng đồng thiên về giao tiếp trừu tượng thường có xu hướng  
lịch sự dương tính hơn so với các cộng đồng thiên về giao tiếp cụ thể.  
Trừu tượng - Cụ thể  
Nhìn chung, các cộng đồng thiên về giao tiếp tôn ti thường tỏ ra  
lịch sự theo âm tính hơn so với các cộng đồng thiên về giao tiếp  
bình đẳng.  
10  
11  
12  
Tôn ti - Bình đẳng  
Duy cảm - Duy lí  
Nhìn chung, các cộng đồng thiên về giao tiếp duy cảm thường có xu hướng  
lịch sự dương tính hơn so với các cộng đồng thiên về giao tiếp duy lí.  
Nhìn chung, các cộng đồng thiên về giao tiếp hạ mình (giao tiếp tự  
khiêm) thường tỏ ra lịch sự theo âm tính hơn so với các cộng đồng thiên  
về giao tiếp khẳng định mình (giao tiếp tự tôn).  
Hạ mình - Khẳng định  
mình  
Nhìn chung, các cộng đồng thiên về giao tiếp hướng nội thường có  
xu hướng lịch sự âm tính hơn so với các cộng đồng thiên về giao tiếp  
hướng ngoại.  
Hướng nội - Hướng  
ngoại  
13  
Tạp chí Nghiên cꢀu Nưꢁc ngoꢂi, Tꢃp 35, Sꢄ 2 (2019) 1-14  
13  
Bull, P. (2008). ‘Slipperiness, Evasion and Ambiguity’:  
Equivocation and Facework in Non-committal Po-  
litical Discourse. Journal of Language and Social  
Psychology, 27(4), pp. 324-332.  
4. Kết luận  
Thể diện và lịch sự, theo chúng tôi, là  
những khái niệm của hiện thực chủ quan và do  
vậy, chúng có bản chất động và phụ thuộc rất  
nhiều vào các thành tố giao tiếp cùng các ẩn  
tàng văn hóa trong các chu cảnh tình huống và  
chu cảnh văn hóa cụ thể. Vì thế, việc đưa ra các  
phổ niệm lịch sự là một công việc thực sự khó  
khăn và, thiển nghĩ, nó cần phải xuất phát từ  
cái chung của ‘con người’ (human beings), đó  
là bản chất kép (double nature) và tư cách kép  
(double status). Các nghiên cứu thực nghiệm  
nội/liên/giao văn hóa, khi xét ở tầng qui chiếu  
‘tính biểu hiện’ (manifestability), cũng cho  
thấy rằng ngay cả các khái niệm cơ bản như  
thể diện, lịch sự, dương tính, âm tính… cũng  
được hiểu, diễn giải và biểu đạt khác nhau, ở  
các mức độ khác nhau, trong các tình huống  
hoặc các cộng đồng khác nhau. Các giả thuyết  
được nêu ra ở trên, theo đó, cũng chỉ nên được  
hiểu là điểm khởi phát mang tính động cho  
các nghiên cứu thực nghiệm chứ quyết không  
được nhìn nhận như các ‘khuôn mẫu’ (stereo-  
types) tri nhận.  
Bull, P., & Fetzer, A. (2010). Face, Facework and Politi-  
cal Discourse. International Review of Social Psy-  
chology, 23(2-3), pp. 155-185.  
Eelen, G. (2001). A Critique of Politeness Theories.  
Manchester: St Jerome Publishing.  
Fasold, R. (1990). The Sociolinguistics of Language.  
Basil Blackwell.  
Fraser B. (1990). Perspectives on politeness. Journal of  
Pragmatics, 14, pp. 219-236.  
Fucada,A., &Asato, N. (2004). Universal Politeness The-  
ory: Application to the Use of Japanese Honorifics.  
Journal of Pragmatics, 36(2004), pp. 1991-2002.  
Goffman, E. (1967). Interaction Rituals: Essays on Face  
to Face Behaviour. Garden City, NY: Anchor.  
Green, G. M. (1989). Pragmatics and Natural Language Un-  
derstanding. New York: Lawrence Erlbaum Associates.  
Grice, H. P. (1975). Logic and Conversation. In P. Cole,  
& J. L. Morgan (eds.), Syntax and Semantics, Vol. 3,  
Speech Acts, (pp. 41–58). New York: Academic Press.  
Gu, Y. (1990). Politeness in Modern Chinese. Journal of  
Pragmatics, 14(2), pp. 237-257.  
Holtgraves, T. (2002). Language and Social Action: So-  
cial Psychology and Language Use. Mahwah, N.J.:  
Erlbaum.  
Lakoff, R. (1977). Politeness, Pragmatics and Performa-  
tives. In A. Rogers, B. Wall, & J. P. Murphy (eds.),  
Proceedings of the Texas Conference on Performa-  
tives, Presuppositions and Implicatures (pp. 79-105).  
Washington DC: Center for Applied Linguistics.  
Tài liệu tham khảo  
Tiếng Việt  
Mao, L.R. (1994). Beyond Politeness Theory: “Face”  
Revisited and Renewed. Journal of Pragmatics, 21,  
pp. 451-486.  
Nguyễn Quang (2002). Giao tiếp và giao tiếp giao văn  
h. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.  
Nguyễn Quang (2004). Một số vấn đề giao tiếp nội văn  
hóa và giao văn hóa. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc  
gia Hà Nội.  
Matsumoto, Y. (1988). Reexamination of the University  
of Face: Politeness Phenomena in Japanese. Jour-  
nal of Pragmatics, 12, pp. 403-426.  
Nguyen Quang (Unpublished). Lecture-notes on Cross-  
Cultural Communication.  
Tiếng Anh  
Bentahila, A., & Davies, E. (1989). Culture and Lan-  
guage Use: A Problem for Language Teaching.  
IRAL, 27(2), pp. 99-112.  
Richards, J. et al. (1999). Longman Dictionary of Ap-  
plied Linguistics. New York, USA: Longman.  
Sifianou, M., & Bayraktaroglu, A. (2012). ‘Face’, Ste-  
reotyping and Claims of Power: The Greeks and  
Turks in Interaction. In C. B. Paulston, S. F. Kies-  
ling, & E.S. Rangel (eds.), The Handbook of Inter-  
cultural Discourse and Communication. (pp. 291-  
312). Oxford: Wiley Blackwell.  
Blum Kulka, S. (1987). Indirectness and Politeness in  
Requests: Same or Different? Journal of Pragmat-  
ics, 11(2), pp. 131-146.  
Brown, P., & Levinson, S. C. (1987). Politeness - Some  
Universals in Language Usage. Cambridge: Cam-  
bridge University Press.  
Watts, R. (2003). Politeness. Cambridge: Cambridge  
University Press.  
Brown, P., & Levinson, S. C. (1990). Politeness - Some  
Universals in Language Usage. Cambridge: Cam-  
bridge University Press.  
Yule, G. (1997). Pragmatics. Oxford: Oxford University  
Press.  
N. Quang/ Tạp chí Nghiên cꢀu Nưꢁc ngoꢂi, Tꢃp 35, Sꢄ 2 (2019) 1-14  
14  
FACE AND POLITENESS IN COMMUNICATION  
REVISITED  
Nguyen Quang  
VNU University of Languages and International Studies,  
Pham Van Dong, Cau Giay, Hanoi, Vietnam  
Abstract: In this article, arguments of various conceptualisations of face and politeness are  
advanced and working definitions of them are offered. Hypotheses of ‘why politeness?’ and of  
positive-negative politeness preferences on the basis of communicative components (context of  
situation) and in correlation with other categorical dimensions (context of culture) are developed  
with confirmation that they simply serve as the starting point for empirical research to prove them  
right or wrong in particular contexts of situation and culture.  
Keywords: politeness, face, communication, hypothesis  
pdf 14 trang Mãnh Khiết 13/01/2024 2040
Bạn đang xem tài liệu "Trở lại vấn đề thể diện và Lịch sự trong giao tiếp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftro_lai_van_de_the_dien_va_lich_su_trong_giao_tiep.pdf