Di chúc chủ tịch Hồ Chí Minh - Di sản tinh thần vô giá của dân tộc

DI CHÚC CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH - DI SẢN TINH THẦN  
VÔ GIÁ CỦA DÂN TỘC  
NGUYỄN THNGHĨA *  
Tóm tắt: Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh là di sản tinh thần vô giá của dân  
tộc và nhân loại. Di chúc không những phản ánh khí phách hào hùng của dân  
tộc suốt lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, thể hiện tư tưởng nhân  
văn, niềm tin sâu sắc và tình cảm cao đẹp của Người dành cho Đảng, cho nhân  
dân và nhân loại tiến bộ, mà còn là chiến lược phát triển lâu dài và bền vững  
của Việt Nam trong thời đại mới. Trong Di chúc, những quan điểm chiến lược  
thể hiện: a) Xây dựng Đảng cầm quyền, đoàn kết trong sạch, vững mạnh “xứng  
đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”; b) Đào tạo,  
bồi dưỡng thế hệ trẻ những người thừa kế, xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa  
“hồng” vừa ‘chuyên”; c) Xây dựng kinh tế - xã hội, văn hóa, chăm lo đời sống  
và tạo điều kiện để nhân dân làm chủ nước nhà; d) “Xây dựng một nước Việt  
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng  
vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.  
Từ khóa: Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh; Hồ Chí Minh; Việt Nam.  
Từ tuổi thiếu niên cho đến giây phút hóa Đông - Tây và chủ nghĩa Mác - Lênin  
cuối cùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được tỏa sáng trong thực tiễn cách mạng  
cống hiến trọn vẹn cuộc đời cho sự Việt Nam. Chiều sâu và tầm cao trí tuệ  
nghiệp cách mạng. Trước lúc đi xa, nhân văn đó của Người không phải là  
Người đã để lại cho dân tộc ta và cả loài bẩm sinh, càng không phải là ngẫu nhiên,  
người tiến bộ bản Di chúc lịch sử.  
mà nó bắt nguồn từ giá trị truyền thống  
Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh không quê hương, đất nước, nảy sinh và phát  
chỉ phản ánh khí phách hào hùng của dân triển suốt quá trình tìm đường cứu nước  
tộc suốt lịch sử hàng ngàn năm dựng và hoạt động cách mạng của Người.(*)  
nước và giữ nước, không chỉ thể hiện tư  
Hồ Chí Minh sinh ra ở vùng “địa linh  
tưởng nhân văn, niềm tin sâu sắc và tình nhân kiệt”, lớn lên trong một gia đình  
cảm cao đẹp của Người dành cho Đảng, nhà nho thanh bạch, được nuôi dưỡng  
cho dân và nhân loại tiến bộ; mà còn là bởi một dân tộc có truyền thống mấy  
chiến lược phát triển lâu dài và bền vững ngàn năm dựng nước và giữ nước, có  
của Việt Nam trong thời đại mới.  
Có thể nói, Di chúc là kết tinh những  
giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam  
với những giá trị cao đẹp nhất của văn  
(*)  
Phó giáo sư, tiến sĩ, Trường Đại học Khoa  
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia  
Tp.Hồ Chí Minh.  
3
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11(84) - 2014  
nền văn hiến lâu đời với khát vọng hòa Việt Nam mới, Hồ Chí Minh đã chắt lọc  
bình luôn vươn tới cuộc sống ấm no, tự phần tinh túy nhất của Tuyên ngôn độc  
do, hạnh phúc, song lại phải sống trong  
cảnh lầm than. Chính trong thực tiễn  
khắc nghiệt đó, Hồ Chí Minh đã sớm  
nhận ra nỗi đau của kiếp đời nô lệ, nỗi  
nhục của người dân mất nước và Người  
đã quyết ra đi tìm đường cứu nước với  
một ý chí sắt đá “đuổi thực dân, giải  
phóng đồng bào”. Bôn ba khắp năm  
châu bốn biển, trải qua 42 nước với  
những trải nghiệm phong phú trong thực  
tiễn lao động, học tập, nghiên cứu và  
hoạt động cách mạng... đến năm 1920,  
bằng tấm lòng yêu nước nhiệt thành,  
tình thương dân sâu sắc, chí căm thù  
thực dân đế quốc, cùng với trí tuệ uyên  
bác của mình, Hồ Chí Minh đã khám  
phá ra con đường cứu nước trong chủ  
nghĩa Mác - Lênin, Người khẳng định:  
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc  
không có con đường nào khác con  
đường cách mạng vô sản”(1).  
Khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,  
Hồ Chí Minh đã thấu hiểu quan điểm  
“Nhân - Trí - Dũng” của Nho giáo, quan  
niệm “Từ bi, hỷ xả” của Phật giáo, tư  
tưởng “Vô vi” của Lão giáo và chủ  
nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn...  
Song, bằng trí tuệ khoa học và thực tiễn  
cách mạng, Người đã vượt qua những  
hạn chế của các tư tưởng này để hướng  
tới giá trị nhân văn phổ quát. Người  
cũng biết về giấc mơ tốt đẹp với chủ  
trương cứu vớt chúng sinh của Chúa  
Giêsu và những giá trị đích thực của văn  
hóa phương Tây với những tư tưởng dân  
chủ, tự do, bình đẳng, bác ái... Chính vì  
vậy, trong Tuyên ngôn độc lập của nước  
lập 1776 của Mỹ Tuyên ngôn nhân  
quyền của cách mạng Pháp 1789 để  
khẳng định quyền sống, độc lập, bình  
đẳng và tự do của dân tộc ta: “Tất cả  
mọi người sinh ra đều có quyền bình  
đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền  
không ai có quyền xâm phạm được;  
trong những quyền ấy, có quyền được  
sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh  
phúc”(2) và “Người ta sinh ra tự do và  
bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn  
luôn được tự do và bình đẳng về quyền  
lợi”(3)... Chính vì vậy, “Nước Việt Nam  
có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự  
thật đã thành một nước tự do, độc lập.  
Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem  
tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng  
và của cải để giữ vững quyền tự do, độc  
lập ấy”(4).  
Nhận rõ những giá trị trong tư tưởng  
nhân văn phương Tây, song Hồ Chí  
Minh cũng sớm hiểu rõ những hạn chế  
của quyền con người trong chủ nghĩa tư  
bản và Người đã tiếp nhận giá trị đích  
thực của chủ nghĩa Mác - Lênin: “Chỉ có  
chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại,  
đem lại cho mọi người không phân biệt  
chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình  
đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả  
đất, việc làm cho mọi người và vì mọi  
người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc...”(5).  
(1)  
Hồ Chí Minh (2000), toàn tập, t.9, Nxb  
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.314.  
(2) Sđd, t.3, tr.555.  
(3) Sđd, t.3, tr.555.  
(4) Sđd, t.3, tr.556.  
(5) Sđd, t.1, tr.461.  
4
Di chúc Chtịch HChí Minh...  
Trên cơ sở giá trị truyền thống Việt lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ  
Nam kết hợp với giá trị văn hóa Đông - nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ  
Tây, Hồ Chí Minh tiếp thu giá trị của ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn  
chủ nghĩa Mác - Lênin không phải theo kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta  
lối “tầm chương trích cú”. Người chắt hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này  
lọc, lắng đọng những tinh hoa nhất trong đến thắng lợi khác.  
thế giới quan duy vật và phương pháp  
Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ  
biện chứng khoa học và vận dụng, phát quý báu của Đảng và dân ta. Các đồng chí  
triển sáng tạo vào thực tiễn cách mạng từ Trung ương đến các chi bộ cần phải  
Việt Nam trong thời đại mới.  
giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng  
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt như giữ gìn con ngươi mắt của mình.  
Trong Đảng thực hành dân chủ rộng  
rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự  
phê bình và phê bình là cách tốt nhất để  
củng cố và phát triển sự đoàn kết và  
thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng  
chí, thương yêu lẫn nhau.  
Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi  
đảng viên và cán bộ phải thật thấm  
nhuần đạo đức cách mạng, thật cần,  
kiệm, liêm, chính chí công vô tư. Phải  
giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải  
xứng đáng là người lãnh đạo, là người  
đầy tớ trung thành của nhân dân”(6).  
Đó là những lời chỉ dạy của người  
sáng lập ra Đảng cho các cấp ủy đảng,  
các đảng viên để không ngừng tăng  
cường năng lực nội sinh của Đảng. Thật  
đáng tiếc là trong những năm qua, “tình  
trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng,  
đạo đức, lối sống của một bộ phận  
không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình  
trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu,  
những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa  
được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục  
diễn biến phức tạp... làm giảm lòng tin  
của nhân dân đối với Đảng và Nhà  
Nam (tháng 2 năm 1930) với “Chánh  
cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt” là  
bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách  
mạng nước ta. Nó chấm dứt thời kỳ  
“đen tối như không có đường ra”, đồng  
thời mở ra trang sử mới cho sự phát  
triển dân tộc - trang sử “độc lập dân tộc  
gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.  
Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là  
Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân làm  
cuộc Cách mạng tháng Tám thành công,  
khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ  
cộng hòa; sau đó, thực hiện thắng lợi hai  
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp  
và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng  
hoàn toàn Việt Nam, thống nhất Tổ quốc  
và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.  
Tất cả những điều đó đã chứng tỏ một sự  
thật là: Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi  
xướng, tổ chức và lãnh đạo nhân dân,  
đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi  
này đến thắng lợi khác. Nói cách khác,  
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân  
tố quyết định mọi thắng lợi của cách  
mạng nước ta.  
Chính vì vậy, mở đầu phần nội dung  
của Di chúc, trước hết, Hồ Chí Minh nói  
về Đảng: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một  
(6) Sđd, t.12.  
5
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11(84) - 2014  
nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của làm cho Đảng ta “xứng đáng là người  
đất nước”(7).  
lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung  
thành của nhân dân”.  
Để xây dựng “một Đảng cầm quyền...  
xứng đáng là người lãnh đạo, là người  
đầy tớ thật trung thành của nhân dân”  
cần rất nhiều yếu tố: đoàn kết, tư tưởng,  
chính trị, đạo đức, tri thức, văn hóa...  
Trong đó, “đoàn kết” được Hồ Chí Minh  
đưa lên hàng đầu; bởi lẽ chỉ có đoàn kết  
mới tập hợp được lực lượng, hình thành  
được tổ chức cách mạng, tạo ra sức  
mạnh để xây dựng và biến đường lối,  
chính sách thành hiện thực. Tuy nhiên,  
đoàn kết chỉ thực sự tạo ra sức mạnh  
cách mạng trên cơ sở “thực hành dân  
chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm  
chỉnh tự phê bình và phê bình”. Đó  
chính là nguyên tắc “bất biến” để tránh  
chủ quan duy ý chí, tệ quan liêu và nạn  
tham nhũng.  
Có thể nói, tự do, dân chủ là “khí  
trời”, là điều kiện thiết yếu để hội họp,  
bàn bạc, trao đổi và tranh luận những  
vấn đề quan trọng của đất nước. Không  
có tự do, dân chủ, không có trao đổi,  
tranh luận thì không thể có sự thống  
nhất thật sự trong tư tưởng và hành  
động. Nhưng để đường lối, chính sách,  
nghị quyết trở thành hiện thực, thì cần  
có tổ chức và kỷ luật nghiêm ngặt trên  
tất cả các cấp độ và trong mọi lĩnh vực  
của đời sống xã hội. vậy, theo Hồ  
Chí Minh, đoàn kết trên cơ sở “thực  
hành dân chủ rộng rãi” và thực hiện một  
cách “thường xuyên”, “nghiêm chỉnh”  
nguyên tắc “tự phê bình và phê bình”;  
đồng thời, rèn luyện đạo đức cách mạng  
“cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” -  
đó là những nhân tố cực kỳ quan trọng  
Người đã hiểu thấu đáo rằng, cách  
mạng là phải “lột bỏ”, kế thừa và luôn  
đổi mới. Vì vậy, “bồi dưỡng thế hệ cách  
mạng cho đời sau là một việc rất quan  
trọng và rất cần thiết”(8). Đối với Hồ Chí  
Minh, bồi dưỡng thế hệ trẻ là bồi đắp  
cho những con người có đủ điều kiện và  
khả năng xây dựng xã hội mới. Hồ Chí  
Minh đã đặt niềm tin lớn vào thế hệ trẻ  
và luôn tâm niệm rằng, “nước nhà thịnh  
hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là  
do các thanh niên(9) - “người chủ tương  
lai của nước nhà”. Tuy nhiên, những thế  
hệ “thừa kế cách mạng” không phải trên  
trời rơi xuống, cũng không thể hình  
thành một cách tự phát trong một sớm  
một chiều, mà chúng được hình thành,  
phát triển thông qua chiến lược con  
người “vì lợi ích trăm năm trồng người”.  
Vì vậy, “Đảng cần phải chăm lo giáo  
dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo  
họ thành những người thừa kế, xây dựng  
chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa  
“chuyên”(10). Để đào tạo được thế hệ  
“thừa kế cách mạng”, trước hết, cần  
phải quán triệt nội dung “học ăn, học  
nói, học gói, học mở” và phương châm  
“học đi đôi với hành, lý luận gắn với  
thực tiễn”, “học ở nhà trường, học ở xã  
hội và học ở nhân dân”; đồng thời áp  
dụng những phương pháp khoa học  
(7)  
Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện  
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb  
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.173.  
(8) Sđd, t.5, tr.185.  
(9) Sđd, t.5, tr.185.  
(10) Sđd, t.12, tr.510.  
6
Di chúc Chtịch HChí Minh...  
“giáo dục thực tế”, “giáo dục nêu gương”; dựng vườn hoa và bia kỷ niệm... để đời  
“Lấy gương người tốt để hàng ngày giáo đời giáo dục tinh thần yêu nước cho  
dục lẫn nhau là một trong những cách  
tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng  
các tổ chức cách mạng, xây dựng con  
người mới, cuộc sống mới”(11). Và, chính  
cuộc đời của Người là tấm gương sáng  
về học tập, rèn luyện đạo đức cách mạng  
“cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”,  
sống rất mực giản dị, trong sáng.  
nhân dân ta”; đối với gia đình thương  
binh, liệt sỹ, cần “phải giúp đỡ họ có  
công việc làm ăn thích hợp, quyết không  
để họ bị đói rét”; đối với các chiến sĩ trẻ  
trong lực lượng vũ trang và thanh niên  
xung phong, cần “đào tạo thành những  
cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư  
tưởng tốt, lập trường cách mạng vững  
chắc” để trở thành “đội quân chủ lực  
trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ  
nghĩa xã hội ở nước ta”(14); đối với phụ  
nữ “cần phải có kế hoạch thiết thực để  
bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày  
càng thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi  
công việc kể cả công việc lãnh đạo”;  
còn “đối với những nạn nhân của chế độ  
xã hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ  
bạc, buôn lậu... thì Nhà nước phải vừa  
giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải  
tạo họ, giúp họ trở nên những người lao  
động lương thiện”(15). Đồng thời, Người  
yêu cầu “miễn thuế nông nghiệp 1 năm  
cho các hợp tác xã nông nghiệp để đồng  
bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm  
phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”(16).  
Cách mạng là sự nghiệp của quần  
chúng - luận điểm đó của chủ nghĩa Mác -  
Lênin không bao giờ cũ, nhất là đối với  
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Theo Hồ  
Chí Minh, chủ nghĩa xã hội sinh động,  
sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần  
chúng nhân dân. Ở người, thương dân  
hết mực và tin dân hết lòng bắt nguồn từ  
giá trị truyền thống nhân ái Việt Nam,  
mà gần nhất và trực tiếp là tư tưởng  
“dân là gốc nước, ái quốc là ái dân” của  
Cụ thân sinh ra Người. Tình thương và  
lòng tin mãnh liệt đó đã trở thành sức  
mạnh vô song để giành độc lập dân tộc,  
xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh  
phúc cho nhân dân. Bởi lẽ, “nếu nước  
độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc,  
tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý  
gì”(12). Vì vậy, trong Di chúc Người căn  
dặn: sau thắng lợi của cuộc kháng chiến  
chống Mỹ cứu nước, “Đảng cần phải có  
kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và  
Từ những phân tích ở trên, hoàn toàn  
có cơ sở để khẳng định rằng, Hồ Chí  
Minh là hiện thân sinh động của những  
giá trị nhân văn của dân tộc và thời đại.  
Khi còn sống, Người đã dành tất cả  
văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao những gì cao đẹp của con người cho  
đời sống của nhân dân”(13). Đặc biệt là, đồng bào, đồng chí, già trẻ, gái trai,  
“đối với những người dũng cảm hi sinh  
(11) Sđd, t.12, tr.558.  
một phần xương máu của mình” cho đất  
nước, cần “phải tìm mọi cách làm cho  
(12) Sđd, t.4, tr.56.  
(13) Sđd, t.12, tr.511.  
họ có nơi ăn, chốn ở và mở lớp dạy  
(14) Sđd, t.12, tr.504.  
(15) Sđd, t.12, tr.504.  
(16) Sđd, t.12, tr.504.  
nghề thích hợp để họ có thể dần “tự lực  
cánh sinh”; đối với các liệt sĩ “cần xây  
7
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11(84) - 2014  
miền Nam, miền Bắc, miền xuôi, miền trọn vẹn và thủy chung như chính cuộc  
núi. Khi ra đi, Người còn “để lại muôn đời cách mạng cao đẹp của Người.  
vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn  
Bốn mươi lăm năm đã đi qua kể từ  
Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu ngày Hồ Chí Minh đi xa, Đảng và nhân  
thanh niên và nhi đồng”(17). Đúng như dân ta đã và đang từng bước thực hiện  
Phạm Văn Đồng khẳng định: “Bác Hồ thắng lợi những điều Người căn dặn.  
là “muôn vàn tình thương yêu” đối với Chúng ta đã hoàn thành xuất sắc cuộc  
đồng chí, đồng bào. Trong tình yêu đó, kháng chiến chống Mỹ cứu nước và đưa  
có chỗ cho mọi người, không quên sót cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã  
một ai, và sắp xếp cho mỗi người vị trí hội. Chiến tranh đã đi qua nhiều năm,  
chiến đấu cũng như lo lắng chu đáo cho nhưng “di chứng” của nó vẫn chưa thực  
mỗi người về việc làm, đời sống và học sự chấm dứt. Cuộc chiến ở hai đầu biên  
tập, vừa nghiêm khắc đòi hỏi, vừa giới Tổ quốc vào cuối thập niên 70 của  
thương yêu dìu dắt”(18). Tất cả những thế kỷ XX cùng với sự chống đối của  
điều đó không chỉ là “tầm nhìn chiến các thế lực thù địch đã trở thành “cuộc  
lược con người” với những tấm gương thử sức” khắc nghiệt đối với đất nước  
sáng “thấu hiểu lòng dân”, “khoan thư đang nghèo lại mang trên mình đầy  
sức dân” của tiền nhân, mà còn là kế thương tích chiến tranh. Trong những  
sách lâu bền để bảo vệ Tổ quốc và phát năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX,  
triển đất nước trong thời đại ngày nay.  
chúng ta phải đối diện với cuộc khủng  
Mở đầu Di chúc, Hồ Chí Minh khẳng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng kéo  
định sự tất thắng của cuộc kháng chiến i. Chính trong hoàn cảnh ngặt nghèo  
chống Mỹ cứu nước. Đó là trí tuệ và đó, Đảng ta thêm một lần nữa, lại thể  
hiện trí tuệ khoa học và bản lĩnh cách  
mạng bằng công cuộc đổi mới toàn diện  
đất nước.(19)  
niềm tin của một nhà hiền triết phương  
Đông vào quy luật muôn đời của cuộc  
chiến tranh nhân dân “lấy đại nghĩa  
thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường  
bạo”. Đó cũng chính là trí tuệ, niềm tin  
của Người anh hùng giải phóng dân tộc,  
danh nhân văn hóa thế giới vào con  
người và đạo lý, vào Đảng và nhân dân,  
vào thế hệ trẻ,... Và do vậy, kết thúc Di  
chúc, Người chỉ rõ chiến lược, mục tiêu  
và con đường phát triển của cách mạng  
nước ta trong thời đại mới là: “Toàn  
Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu,  
xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,  
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu  
mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự  
nghiệp cách mạng thế giới”(19). Thật là  
Theo tinh thần của Di chúc, tại Đại  
hội VI, Đảng ta đã “nhìn thẳng vào sự  
thật”, nghiêm túc thực hiện tự phê bình  
và phê bình, đúc rút những bài học kinh  
nghiệm của cách mạng: “lấy dân làm  
gốc”, “tôn trọng và hành động theo quy  
luật khách quan”, “đoàn kết toàn dân”,  
phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc  
và thời đại để thực hiện công cuộc đổi  
(17) Sđd, t.12, tr.517.  
(18)  
Trần Văn Giàu (2011), Giá trị tinh thần  
truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Chính  
trị quốc gia, Hà Nội, tr.461.  
(19) Sđd, t.12, tr.512.  
8
Di chúc Chtịch HChí Minh...  
mới toàn diện đất nước, xây dựng và Thái Bình Dương là vấn đề tranh chấp  
bảo vệ vững chắc Tổ quốc.  
chủ quyền do giới cầm quyền Trung  
Quốc gây ra trên biển Đông trong thời  
gian qua.  
Theo tinh thần của Di chúc, trong 25  
năm qua “chúng ta đã thực hiện thành  
công chặng đường đầu của công cuộc  
đổi mới, đưa nước ta ra khỏi tình trạng  
kém phát triển, đời sống nhân dân có  
nhiều thay đổi tích cực, sức mạnh quốc  
gia về mọi mặt được tăng cường, độc  
lập, tự chủ và chế độ xã hội chủ nghĩa  
được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt  
Nam trên trường Quốc tế được nâng  
cao, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát  
triển mạnh mẽ và bền vững hơn trong  
giai đoạn mới”(20). Tuy nhiên, hiện nay  
“nước ta vẫn đứng trước nhiều thách  
thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng  
hợp và diễn biến phức tạp... Tình trạng  
suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức,  
lối sống của một bộ phận không nhỏ cán  
bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng,  
lãng phí còn nghiêm trọng. Những biểu  
hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã  
hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có  
diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch  
tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến  
hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng  
các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”  
hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở  
nước ta”(21). Trong khi đó, tình hình thế  
giới rất phức tạp, biến đổi nhanh chóng  
và có những yếu tố khó lường. “Khu  
vực Châu Á - Thái Bình Dương và  
Đông Nam Á phát triển năng động,  
nhưng cũng tiềm ẩn những nhân tố mất  
ổn định”(22).  
Rõ ràng là, trong bối cảnh mới, có  
thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy  
cơ, thách thức luôn đan xen nhau trong  
quá trình phát triển. Trong bối cảnh đó,  
chúng ta càng phải kiên định con đường  
mà Hồ Chí Minh đã chọn là “Độc lập  
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”;  
bình tâm suy ngẫm và thực hiện những  
điều Người căn dặn trong Di chúc; đồng  
thời phải chủ động khai thác những  
thuận lợi, nắm bắt thời cơ để vượt qua  
khó khăn, nguy cơ, thách thức đưa đất  
nước phát triển đúng hướng. Trước hết,  
phải kiên trì và kiên quyết đấu tranh giữ  
vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc  
gia và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước  
bằng biện pháp hòa bình và trên cơ sở  
luật pháp quốc tế với phương châm “dĩ  
bất biến, ứng vạn biến”; đồng thời, cần  
sử dụng mọi nguồn lực, mọi giải pháp  
để phát triển, tăng cường năng lực nội  
sinh và sức mạnh kinh tế, chính trị,  
ngoại giao, quốc phòng và an ninh của  
đất nước.(22)  
Như vậy, Di chúc Chủ tịch Hồ Chí  
Minh không chỉ thể hiện niềm tin và  
tình cảm của Người dành cho Đảng, cho  
dân, mà còn là chiến lược phát triển của  
Việt Nam trong thời đại mới. Đó là di  
sản tinh thần vô giá của dân tộc.  
(20)  
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện  
Một trong những yếu tố cơ bản và  
trực tiếp không chỉ gây mất ổn định cho  
hợp tác và phát triển, mà còn đe dọa hòa  
bình ở khu vực Đông Nam Á và Châu Á -  
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb  
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.9.  
(21) Sđd, tr.29.  
(22) Sđd, tr.67.  
9
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11(84) - 2014  
10  
pdf 8 trang Mãnh Khiết 13/01/2024 2760
Bạn đang xem tài liệu "Di chúc chủ tịch Hồ Chí Minh - Di sản tinh thần vô giá của dân tộc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfdi_chuc_chu_tich_ho_chi_minh_di_san_tinh_than_vo_gia_cua_dan.pdf