Tài liệu dạy học môn Giáo dục chính trị - Trình độ Cao đẳng

BỘ LAO ĐỘNG THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI  
TỔNG CỤC GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP  
TÀI LIỆU DẠY HỌC  
MÔN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ  
TRONG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ CAO ĐẲNG  
(Kèm theo Công văn số 147/TCGDNN-ĐTCQ ngày 22 tháng 01 năm 2020  
của Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp)  
MỤC LỤC  
BÀI MỞ ĐẦU  
I. VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT MÔN HỌC  
1. Vị trí  
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: Chính trị là toàn bộ những hoạt động  
có liên quan đến các mối quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc gia và các tầng lớp xã  
hội, cốt lõi là vấn đề giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà  
nước, xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của Nhà nước.  
Trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa hội, chính trị trước hết bảo đảm  
vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản, hiệu lực quản của Nhà nước, quyền làm  
chủ của nhân dân lao động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống hội.  
Chính trị có vai trò to lớn. Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp đều quan  
tâm đến chính trị để bảo vệ lợi ích của mình. Theo V.I.Lênin, “Chính trị biểu  
hiện tập trung của kinh tế...”1. Chính trị trong xã hội hội chủ nghĩa còn là  
biểu hiện tập trung của văn minh, lao động sáng tạo trong sự nghiệp giải phóng  
con người.  
Môn học Giáo dục chính trị là môn học bắt buộc thuộc khối các môn học  
chung trong chương trình đào tạo trình độ cao đẳng.  
2. Tính chất môn học  
Giáo dục chính trị bộ phận của khoa học chính trị, của công tác tư  
tưởng, nội dung chủ yếu là giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí  
Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước nhằm hình  
thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học, bản lĩnh chính trị, niềm tin và  
năng lực hoạt động thực tiễn cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, đáp ứng yêu  
cầu xây dựng và phát triển của đất nước.  
Môn học Giáo dục chính trị có ý nghĩa quan trọng hàng đầu giúp cho mỗi  
người học hiểu biết được nội dung cơ bản về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ  
Chí Minh; sự ra đời của Đảng những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt  
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng; nội dung chủ yếu đường lối cách mạng của  
Đảng; góp phần bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, niềm tin vào  
Đảng và con đường hội chủ nghĩa Đảng và nhân dân đã lựa chọn.  
Môn học Giáo dục chính trị gắn chặt chẽ với đường lối của Đảng,  
chính sách, pháp luật của Nhà nước, gắn với thực tiễn đất nước, gắn với sự tu  
dưỡng, rèn luyện của người học; góp phần giáo dục người lao động phát triển  
1 V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ. M. 1977.T42, tr 349  
1
   
toàn diện, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hội chủ  
nghĩa.  
II. MỤC TIÊU CỦA MÔN HỌC  
Sau khi học xong môn học, người học đạt được:  
Về kiến thức: Trình bày được một số nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác -  
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt  
Nam và những nhiệm vụ chính trị của đất nước hiện nay; nội dung học tập, rèn  
luyện để trở thành người công dân tốt, người lao động tốt.  
Về kỹ năng: Vận dụng được được các kiến thức chung được học về quan  
điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào giải quyết các vấn đề  
của cá nhân, xã hội và các vấn đề khác trong quá trình học tập, lao động, hoạt  
động hàng ngày và tham gia xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.  
Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: năng lực vận dụng các nội dung đã  
học để rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; thực hiện tốt quan điểm,  
đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước.  
III. NỘI DUNG CHÍNH  
Môn học Giáo dục chính trị trình độ cao đẳng bao gồm các nội dung về  
khái quát về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; những thành tựu của  
cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng; đặc trưng phương hướng  
xây dựng hộ hội chủ nghĩa ở Việt Nam; phát triển kinh tế, hội, văn hóa,  
con người ở Việt Nam; tăng cường quốc phòng an ninh, mở rộng quan hệ đối  
ngoại hội nhập quốc tế ở Việt Nam; xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp  
quyền hội chủ nghĩa Việt Nam; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn  
dân tộc trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; tu dưỡng, rèn luyện để trở thành người  
công dân tốt, người lao động tốt.  
IV. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ĐÁNH GIÁ MÔN HỌC  
1. Phương pháp dạy học  
Môn hc Giáo dc chính trly phương pháp lun ca chnghĩa Mác-  
Lênin, tư tưởng HChí Minh là cơ scho vic hc tp; quán trit các quan đim  
đổi mi căn bn và toàn din giáo dc và đào to ca Đảng; sdng rng rãi các  
phương pháp dy hc tích cc, ly người hc làm trung tâm, biến quá trình dy  
hc thành quá trình thc.  
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc cách mạng khoa học, công nghệ  
truyền thông phát triển nhanh chóng, khi dạy học Giáo dục chính trị cần tham  
2
   
khảo nhiều tài liệu, qua nhiều kênh trên các phương tiện thông tin đại chúng,  
nhất hệ thống truyền thông của Đảng, Nhà nước; phát huy tính tích cực giữa  
người dạy người học; cần khẳng định quan điểm chính thống, phê phán  
những quan điểm sai trái, lệch lạc.  
Người học cần tự nghiên cứu Giáo trình, tích cực thảo luận trên lớp, liên  
hệ với thực tiễn nghề nghiệp mình đào tạo để có thêm sự hứng thú trong học  
môn Giáo dục chính trị.  
Giáo dục chính trị là môn học gắn chặt chẽ với thực tiễn cuộc sống.  
Trong dạy học cần liên hệ với thực tiễn thực hiện đường lối của Đảng, chính  
sách, pháp luật của Nhà nước hiện nay; gắn việc dạy thuyết với thực hành, với  
hoạt động ngoại khoá, tham quan bảo tàng, thực tiễn các cơ sở sản xuất, các  
doanh nghiệp, các di tích lịch sử, văn hoá cách mạng ở địa phương.  
2. Đánh giá môn học  
Việc đánh giá kết quả học tập của người học được thực hiện theo quy định  
tại Thông tư số 09/2017/TT-BLĐTBXH ngày 13 tháng 3 năm 2017 của Bộ  
trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định việc tổ chức thực hiện  
chương trình đào tạo trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng theo niên chế hoặc  
theo phương thức tích lũy đun hoặc tín chỉ; quy chế kiểm tra, thi, xét công  
nhận tốt nghiệp.  
CÂU HỎI  
1. Làm rõ vị trí và tính chất của môn Giáo dục chính trị?  
2. Cần phải làm những để học tập tốt môn Giáo dục chính trị?  
3
Bài 1:  
KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN  
I. KHÁI NIỆM CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN  
1. Khái niệm nguồn gốc hình thành  
- Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết do C.Mác, Ph.Ăngghen sáng lập từ  
giữa thế kỷ XIX, được V.I.Lênin bổ sung, phát triển đầu thế kỷ XX. Chủ nghĩa  
Mác-Lênin là hệ thống luận thống nhất được cấu thành từ ba bộ phận luận  
cơ bản triết học Mác-Lênin, kinh tế chính trị học Mác-Lênin và chủ nghĩa xã  
hội khoa học. Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ thống luận khoa học thống nhất về  
mục tiêu, con đường, biện pháp, lực lượng thực hiện sự nghiệp giải phóng giai  
cấp công nhân, giải phóng xã hội, giải phóng con người, xây dựng thành công  
chủ nghĩa hội chủ nghĩa cộng sản.  
Từng bộ phận cấu thành của Mác-Lênin có vị trí, vai trò khác nhau nhưng  
cả học thuyết một thể thống nhất, nêu rõ mục tiêu, con đường, lực lượng,  
phương thức giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.  
- Chủ nghĩa Mác-Lênin hình thành từ các nguồn gốc:  
Về kinh tế-xã hội: Nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa giữa thế kỷ XIX  
phát triển mạnh ở nhiều nước Tây Âu. Sự ra đời và phát triển của giai cấp công  
nhân với tính cách là lực lượng chính trị độc lập là nhân tố quan trọng ra đời chủ  
nghĩa Mác. Biểu hiện về mặt hội của mâu thuẫn giữa tính chất hội hoá sản  
xuất đại công nghiệp với chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất  
là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân đã trở nên rất gay  
gắt.Hàng loạt cuộc đấu tranh tự phát, quy mô lớn của giai cấp công nhân chống  
lại giai cấp tư sản đã nổ ra, như đấu tranh của công nhân dệt thành phố Li-ông,  
Pháp (1831- 1834), phong trào Hiến chương của công nhân Anh (1838-1848),  
đấu tranh của công nhân dệt thành phố Xi-lê-di, Đức (1844), v.v… nhưng đều  
thất bại. Yêu cầu khách quan cần học thuyết khoa học và cách mng dn  
đường để đưa phong trào đấu tranh ca giai cp công nhânđi đến thng li.  
Về tư tưởng luận những đỉnh cao về triết học cổ điển Đức mà tiêu  
biểu Can-tơ, Hê-ghen, Phoi-ơ-bắc; kinh tế chính trị học cổ điển ở Anh mà tiêu  
biểu A-đam Xmít, Đa-vit Ri-các-đô; các nhà chủ nghĩa hội không tưởng  
phê phánở Pháp và Anh mà tiêu biểu là Xanh Xi-mông, Phu-riê; Ô-oen...  
Về khoa học những phát minh về khoa học tự nhiênnhư thuyết tiến hóa  
giống loài ca Đác-uyn (1859), thuyết bo toàn và chuyn hóa năng lượng ca Lô-  
4
   
mô-nô-xp(1845); hc thuyết vtế bào ca các nhà khoa hc Đức (1882). Các hc  
thuyết này là cơ scng cchnghĩa duy vt bin chng- cơ sphương pháp lun  
ca hc thuyết Mác.  
- Vai trò nhân tố chủ quan  
C.Mác (1818-1883), Ph.Ăngghen (1820-1895) đều người Đức, những  
thiên tài trên nhiều lĩnh vực tự nhiên, chính trị, văn hoá-xã hội... Trong bối cảnh  
nền đại công nghiệp giữa thế kỷ XIX đã phát triển, hai ông đã đi sâu nghiên cứu  
hội tư bản chủ nghĩa; kế thừa, tiếp thu có chọn lọc và phát triển những tiền đề  
tư tưởng luận, khoa học, phát hiện ra sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai  
cấp công nhân trong tiến trình cách mạng cách mạng hội chủ nghĩa cộng  
sản chủ nghĩa.  
2. Các giai đoạn phát triển  
- Giai đoạn C.Mác, Ph.Ăngghen (1848-1895)  
Các Mác và Ph.Ăngghen bắt đầu gặp nhau từ năm 1844, sớm thống nhất  
về tư tưởng chính trị, cùng nhau nghiên cứu, phát hiện ra sức mạnh to lớn của  
giai cấp công nhân và từ đó chuyển biến sang lập trường dân chủ cách mạng.  
Tháng 2-1848, tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản do hai ông dự  
thảo được Đồng minh những người cộng sản thông qua và công bố ở Luân Đôn,  
mở đầu sự ra đời chủ nghĩa Mác. Sau đó hai ông đã viết nhiều tác phẩm, điển  
hình là bộ sách Tư bản, xây dựng nên học thuyết khoa học với ba bộ phận lớn  
gồm triết học, kinh tế chính trị học chủ nghĩa hội khoa học.  
Các Mác và Ph.Ăngghen sáng lập và là lãnh tụ của Quốc tế I (1863-1876),  
đặt nền tảng cho sự ra đời phong trào công nhân quốc tế. Sau khi C.Mác qua đời  
(1883), vàonăm 1889 Ph.Ăngghen thành lập Quốc tế II với sự tham gia của  
nhiều chính đảng của giai cấp công nhân, mở ra thời kỳ phát triển theo bề rộng  
của phong trào công nhân quốc tế.  
Sra đời chnghĩa Mác đáp ng yêu cu khách quan, cp bách ca phong  
trào công nhân; là kết qutt yếu ca skế tha, phát trin ca trí tunhân loi, đã  
đưa phong trào công nhân ttphát thành tgiác và phát trin nhiu nước tư bn  
chnghĩa.  
- V.I.Lênin phát triển chủ nghĩa Mác (1895-1924)  
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin (1870-1924, người Nga), đã  
đấu tranh kiên quyết,bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác trong giai đoạn  
chủ nghĩa đế quốc. Người đã phân tích những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản  
trong điều kiện mới khẳng định chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của  
5
chủ nghĩa tư bản. Cách mạng sản thể nổ ra và thắng lợi ở một vài nước,  
thậm chí ở một nước kinh tế chưa phát triển cao. Cách mạng sản muốn thắng  
lợi, tất yếu phải xây dựng một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Đảng đó  
phải được tổ chức chặt chẽ đi theo lý luận của chủ nghĩa Mác. Cách mạng vô  
sản và cách mạng giải phóng dân tộc mối quan hệ khăng khít với nhau...  
V.I.Lênin đã lãnh đạo thắng lợi Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917,  
tiến hành xây dựng chủ nghĩa hội ở nước Nga (1917-1921) và sau đó là Liên  
Xô (1922-1924). Người đã phát triển nhiều vấn đề luận mới về xây dựng chủ  
nghĩa hội. Đó là chính sách kinh tế mới, công nghiệp hóa, điện khí hoá toàn  
quốc, xây dựng quan hệ sản xuất mới, luận về Đảng Cộng sản và Nhà nước  
kiểu mới, về thực hành dân chủ, phát triển văn hóa, khoa học-kỹ thuật, về đoàn  
kết dân tộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc...v.v.  
Sau khi V.I.Lênin mất, Quốc tế Cộng sản đã bổ sung, gọi chủ nghĩa Mác  
chủ nghĩa Mác-Lênin và khẳng định đây hệ thống luận thống nhất, vũ  
khí lý luận của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới đấu  
tranh giành chính quyền tiến hành xây dựng hội mới hội hội chủ  
nghĩa, cộng sản chủ nghĩa.  
- Chủ nghĩa Mác-Lênin từ năm 1924 đến nay  
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết mở, không ngừng bổ sung và phát  
triển cùng với sự phát triển của tri thức nhân loại, nền tảng tư tưởng của các  
đảng cộng sản và công nhân trên thế giới, không ngừng được bổ sung, phát triển  
trong tiến trình cách mạng của giai cấp công nhân và các dân tộc trên thế giới .  
II. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN  
1. Triết học Mác-Lênin  
Triết học Mác-Lênin là khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất  
của tự nhiên, xã hội duy. Triết học Mác-Lênin bao gồm chủ nghĩa duy vật  
biện chứng chủ nghĩa duy vật lịch sử.  
a) Chủ nghĩa duy vật biện chứng  
Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập quan  
niệm mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới rất đa dạng, khác nhau nhưng bản  
chất sự tồn tại của thế giới vật chất. Vật chất một phạm trù triết học, dùng  
để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được  
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào  
cảm giác1. Định nghĩa khẳng định, mọi sự tồn tại dưới các hình thức cụ thể của  
1 V.I. Lênin: Toàn tập. t.18. Nxb Tiến bộ. Mátxcơsva. 1980. tr. 151  
6
 
các sự vật, hiện tượng là khách quan, độc lập với ý thức của con người. Vật chất  
tồn tại khách quan thông qua các sự vật cụ thể, tác động vào giác quan, gây ra  
cảm giác của con người. Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất  
quyết định ýthức, còn ý thức chỉ sự phản ánh một phần thế giới vật chất vào  
đầu óc con người.  
Vận động phương thức tồn tại của vật chất nên vận động vật chất  
không tách rời nhau. Vận động của vật chất vĩnh viễn đó sự vận động tự  
thân, do mâu thuẫn bên trong quyết định; do tác động qua lại giữa các yếu tố  
trong cùng một sự vật hay giữa các sự vật với nhau. Có 5 hình thức cơ bản của  
vận động vận động cơ học, học, hoá học, sinh học vận động hội. Vận  
động hội là hình thức vận động cao nhất vì nó là sự vận động các chế độ xã  
hội thông qua con người. Vận động tuyệt đối, phương thức tồn tại của vật  
chất. Đứng im là tương đối, có tính chất biệt, chỉ xảy ra trong một quan hệ  
nhất định.Trong đứng im vẫn vận động, nên đứng im là tương đối. Quan  
điểm này đòi hỏi phải xem xét sự vật, hiện tượng trong trạng thái vận động,  
không nên rập khuôn, cứng nhắc khi tình hình đã thay đổi.  
Không gian, thời gian thuộc tính tồn tại khách quan và vô tận của vật  
chấtvận động được xác định từ sự hữu hạn của các sự vật, quá trình riêng lẻ.  
Vật chất có ba chiều không gian và một chiều thời gian. Quan điểm này đòi hỏi  
xem xét sự vật, hiện tượng trong không gian, thời gian nhất định, trong bối cảnh  
lịch sử cụ thể dự báo sự vận động của nó trong tương lai.  
Ý thức sự phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc  
người, gồm ba yếu tố cơ bản nhất là tri thức, tình cảm và ý chí của con người.  
Do tâm, sinh lý, mục đích, yêu cầu, động cơ điều kiện hoàn cảnh của mỗi  
người khác nhau nên dù cùng hiện thực khách quan nhưng ý thức con người có  
thể khác nhau. Vật chất và ý thức mối quan hệ biện chứng, trong đó vật chất  
quyết định nguồn gốc, nội dung, bản chất sự vận động của ý thức. Ý thức có  
tính độc lập tương đối và tác động tích cực trở lại vật chất. Ý thức thể thay  
đổi nhanh, chậm, song hành so với hiện thực. Sự tác động của ý thức đối với vật  
chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Quan điểm này đòi hỏi  
phải tôn trọng thực tiễn khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ  
quan của con người để cải biến hiện thực. Con người cần rèn luyện trong thực  
tiễn lao động cuộc sống, phát huy tác động tích cực của ý thức, không trông  
chờ, ỷ lại khách quan.  
7
Phép biện chứng duy vật là lý luận khoa học bao gồm hai nguyên lý cơ  
bản; sáu cặp phạm trù và ba quy luật cơ bản1.  
- Hai nguyên cơ bản của phép biện chứng duy vật là:  
+ Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Nguyên lý này khẳng định thế giới  
có vô vàn các sự vật, hiện tượng nhưng chúng tồn tại trong mối liên hệ tương  
hỗ, ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp với nhau. Có mối liên hệ bên trong là mối  
liên hệ giữa các mặt, các yếu tố trong một sự vật hay một hệ thống. mối liên  
hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa sự vật này với sự vật kia, hệ thống này với hệ  
thống kia. Có mối liên hệ chung tác động lên toàn bộ hệ thống, mối liên hệ  
riêng của từng sự vật; mối liên hệ trực tiếp không thông qua trung gian và có  
mối liên hệ gián tiếp, thông qua trung gian. Có các mối liên hệ tất nhiên và ngẫu  
nhiên; mối liên hệ cơ bản và không cơ bản.v.v... Nguyên lý này đòi hỏi phải có  
quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sửcụ thể để xem xét các mối liên hệ bản  
chất, bên trong sự vật, hiện tượng; cần tránh cách nhìn phiến diện, một chiều  
trong thực tiễn cuộc sống và công việc.  
+ Nguyên lý về sự phát triển: Mọi sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động  
và phát triển không ngừng. những vận động diễn ra theo khuynh hướng đi  
lên; có khuynh hướng vận động thụt lùi, đi xuống; có khuynh hướng vận động  
theo vòng tròn, lặp lại như cũ. Phát triển là khuynh hướng vận động từ thấp lên  
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện theo chiều  
hướng đi lên của sự vật, hiện tượng. Phát triển là khuynh hướng chung của thế  
giới và nó có tính phổ biến, được thể hiện trên mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và  
duy. Vì vậy cần nhận thức sự vật, hiện tượng theo xu hướng vận động, đổi  
mới phát triển, tránh cách nhìn phiến diện với tư tưởng bảo thủ, định kiến.  
- Những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật  
Quy luật những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, bên trong, có tính phổ  
biến được lặp đi lặp lại giữa các mặt, các yếu tố trong cùng một sự vật, hiện  
tượng, hay giữa các sự vật hiện tượng. Quy luật tự nhiên diễn ra một cách tự  
phát, thông qua tác động của lực lượng tự nhiên. Quy luật hội được hình  
thành và tác động thông qua hoạt động của con người. Con người chủ thể của  
hội của lịch sử, nhận biết quy luật để hướng nó theo hướng lợi nhất cho  
mình. Quy luật của hội vừa tiền đề, vừa kết quả hoạt động của con  
người. Con người không thể sáng tạo ra hay xoá bỏ quy luật theo ý muốn chủ  
quan của mình.  
1Trong chương trình cao đẳng, không gii thiu 6 cp phm trù: cái chung và cái riêng, bn cht và hin tượng, tt  
nhiên và ngu nhiên, ni dung và hình thc, nguyên nhân và kết qu, khnăng và hin thc.  
8
Phép biện chứng duy vật có 3 quy luật cơ bản:  
+ Quy lut tnhng sthay đổi vlượng dn đến sthay đổi vcht và  
ngược li  
Theo quy luật này, mọi sự vật, hiện tượng đều gồm hai mặt đối lập chất  
lượng. Chất là các thuộc tính khách quan, vốn của các sự vật, hiện tượng;  
còn lượng chỉ số các yếu tố cấu thành, quy mô tồn tại nhịp điệu biến đổi  
của chúng. Chất lượng của mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại quy định lẫn nhau.  
Tương ứng với một lượng thì cũng một chất nhất định ngược lại. Sự thay  
đổi về lượng đều khả năng dẫn tới những sự thay đổi về chất ngược lại,  
những sự biến đổi về chất của sự vật lại thể tạo ra những khả năng dẫn tới  
những biến đổi mới về lượng. Sự tác động qua lại ấy tạo ra phương thức cơ bản  
quá trình vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng.  
Sự thống nhất giữa lượng chất, được thể hiện trong giới hạn nhất định  
gọi độ.Độ giới hạn ở đó đã sự biến đổi về lượng nhưng chưa sự  
thay đổi về chất; sự vật khi đó còn là nó, chưa là cái khác. Đến điểm nút, qua  
bước nhảy bắt đầu sự thay đổi về chất, thành sự vật khác.  
Chất mặt tương đối ổn định, lượng mặt thường xuyên biến đổi.  
Lượng biến đổi sẽ dẫn đến mâu thuẫn, phá vỡ chất cũ, chất mới ra đời với lượng  
mới. Lượng mới lại tiếp tục biến đổi đến giới hạn nào đó lại phá vỡ chất cũ  
thông qua bước nhảy. Quá trình cứ thế tiếp diễn, tạo nên cách thức vận động  
phát triển thống nhất giữa tính liên tục và tính đứt đoạn của sự vật.  
Quy luật này chỉ rõ trong nhận thức hoạt động thực tiễn, con người  
phải tích cực chuẩn bị kỹ mọi điều kiện chủ quan, tích lũy đủ về lượng để sự  
biến đổi về chất. Đề phòng bệnh chủ quan, duy ý chí, muốn các bước nhảy liên  
tục. Mặt khác, cũng cần khắc phục tư tưởng hữu khuynh, ngại khó, lo sợ. Khi có  
tình thế, thời cơ chín muồi thì kiên quyết tổ chức thực hiện bước nhảy để giành  
thắng lợi.  
Quy luật này chỉ ra về cách thức vận động và phát triển của sự vật, hiện  
tượng trong tự nhiên, xã hội duy.  
+ Quy luật thống nhất đấu tranh của các mặt đối lập  
Theo quy luật này, mọi sự vật, hiện tượng đều thể thống nhất của các  
mặt đối lập. Các mặt đối lập liên hệ với nhau, thâm nhập vào nhau, tác động qua  
lại lẫn nhau, làm tiền đề tồn tại cho nhau, bài trừ, phủ định lẫn nhau đưa đến sự  
chuyển hoá, thay đổi lên trình độ cao hơn, hoặc cả hai mặt đối lập cũ mất đi,  
9
hình thành hai mặt đối lập mới. Sự thống nhất đấu tranh của các mặt đối lập  
nguồn gốc động lực cơ bản của mọi sự vận động và phát triển.  
Sự thống nhất các mặt đối lập tương đối; đấu tranh giữa các mặt đối lập  
tuyệt đối. Các mặt đối lập vận động trái chiều nhau, không ngừng tác động,  
ảnh hưởng đến nhau, làm sự vật, hiện tượng biến đổi. Kết quả của quá trình đó  
chứa đựng các yếu tố tích cực trở thành nguyên nhân của sự phát triển.  
Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển và là hạt nhân  
của phép biện chứng duy vật; đòi hỏi trong nhận thức thực tiễn phải phát hiện  
biết phân loại những mâu thuẫn của sự vật hiện tượng để có các biện pháp để  
giải quyết thích hợp.  
+ Quy luật phủ định của phủ định  
Theo quy luật này, thế giới vật chất tồn tại, vận động phát triển không  
ngừng. Sự vật, hiện tượng nào đó xuất hiện, mất đi, thay thế bằng sự vật, hiện  
tượng khác. Sự thay thế đó gọi phủ định.  
Phủ định biện chứng sự tự phủ định do mâu thuẫn bên trong, vốn có  
của sự vật, do có sự kế thừa cái tích cực của sự vật cũ được cải biến cho phù  
hợp với cái mới. Không có kế thừa thì không có phát triển, nhưng không phải kế  
thừa toàn bộ mà có chọn lọc. Cái mới phủ định cái cũ, nhưng cái mới sẽ không  
phải mới mãi, nó sẽ cũ đi bị cái mới khác phủ định; không có lần phủ định  
cuối cùng vì quá trình phủ định là vô tận.  
Phủ định biện chứng gắn với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Phủ định trong  
tự nhiên khác với phủ định trong xã hội, cũng khác với phủ định trong duy.  
Trong điều kiện nhất định, cái tuy đã bị thay thế nhưng vẫn còn có  
những yếu tố vẫn mạnh hơn cái mới. Cái mới còn non yếu chưa khả năng  
thắng ngay cái cũ. Phép biện chứng duy vật khẳng định vận động phát triển đi  
lên, là xu hướng chung của thế giới, nhưng không diễn ra theo đường thẳng tắp,  
diễn ra theo đường xoáy ốc quanh co phức tạp, đi lên.  
Quy luật này vạch ra khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật, đòi  
hỏi phải xem xét sự vận động phát triển của sự vật trong quan hệ cái mới ra đời  
từ cái cũ, cái tiến bộ ra đời từ cái lạc hậu, để ủng hộ cái mới tiến bộ. Khi gặp  
bước thoái trào cần phân tích kỹnguyên nhân, tìm cách khắc phục để từ đó có  
niềm tin vào sự phát triển.  
- Lý luận nhận thức  
Nhận thức một hoạt động của con người, là quá trình phản ánh chủ  
động, tích cực, sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc người. Hoạt động  
10  
đó được thực hiện thông qua thực tiễn, lấy thực tiễn làm cơ sở, mục đích,  
động lực và là tiêu chuẩn xác định tính đúng đắn của nhận thức.  
Chủ thể nhận thức là con người nhưng thường bị chi phối bởi điều kiện  
lịch sử, về kinh tế, chính trị-xã hội, truyền thống văn hoá; đặc điểm tâm sinh lý,  
đặc biệt năng lực nhận thức, tư duy của chủ thể. Không có sự vật, hiện tượng  
nào trong thế giới khách quan mà con người không thể biết được. Những tri thức  
của con người về thế giới được thực tiễn kiểm nghiệm là tri thức xác thực, tin  
cậy. Nhận thức của con người không phải là quá trình phản ánh thụ động mà là  
chủ động, tích cực, sáng tạo, đi từ biết ít đến biết nhiều, từ biết hiện tượng đến  
hiểu bản chất sự vật. Muốn nhận thức đúng đắn, con người phải không ngừng  
học hỏi, tích lũy kiến thức để làm giàu tri thức của mình từ kho tàng tri thức của  
nhân loại.  
Nhận thức của con người là quá trình biện chứng từ trực quan sinh động  
đến tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Ban đầu nhận thức trực tiếp, cảm tính  
từ hiện thực khách quan bằng các giác quan. Tiếp theo là tri giác, là sự phản ánh  
đối tượng tổng hợp nhiều thuộc tính khác nhau của sự vật do cảm giác đem lại.  
Từ tri giác, nhận thức cảm tính chuyển lên hình thức cao hơn biểu tượng. Biểu  
tượng là hình ảnh về sự vật được tái hiện một cách khái quát, khi không còn tri  
giác trực tiếp với sự vật. Tư duy trừu tượng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn  
cao của quá trình nhận thức, dựa trên cơ sở tài liệu do trực quan sinh động đưa  
lại. Chỉ qua giai đoạn này, nhận thức mới nắm được bản chất, quy luật của hiện  
thực.  
Nhn thc lý tính tuy không phn ánh trc tiếp hin thc khách quan,  
nhưng do stru tượng, khái quát hóa, đã vch ra được bn cht, quy lut ca sự  
vt, hin tượng.  
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn của một quá trình  
nhận thức có liên hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau. Giai đoạn nhận thức  
cảm tính, nhận thức hiện thực trực tiếp thế giới khách quan, nhưng đó chỉ là  
nhận thức những hiện tượng bề ngoài, giản đơn. Nhận thức lý tính, tuy không  
phản ánh trực tiếp sự vật hiện tượng, nhưng vạch ra những mối liên hệ bản chất,  
tất yếu bên trong, vạch ra quy luật vận động phát triển của sự vật, hiện tượng.  
Nhận thức cảm tính là tiền đề, điều kiện của nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính  
khi đã hình thành sẽ tác động trở lại làm cho nhận thức cảm tính nhạy bén hơn,  
chính xác hơn. Tư duy trừu tượng phản ánh gián tiếp hiện thực nên có thể sự  
sai lạc. Do vậy, nhận thức ở tư duy trừu tượng phải kiểm nghiệm trong thực tiễn  
để phân biệt nhận thức đúng hay sai lệch.  
11  
Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng trở về  
thực tiễn, là con đường biện chứng tận, liên tục của sự nhận thức thế giới  
khách quan.  
- Thực tiễn và vai trò của đối với nhận thức  
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất, cảm tính, có tính chất lịch sử-xã  
hội của con người nhằm cải tạo thế giới khách quan để phục vụ nhu cầu của con  
người. Hoạt động thực tiễn rất phong phú thể hiện qua ba hình thức cơ bản là  
hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động chính trị-xã hội hoạt động thực  
nghiệm khoa học. Trong đó, hoạt động sản xuất ra của cải vật chất hoạt động  
cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển hội.  
Thực tiễn cơ sở, nguồn gốc của nhận thức vì nó cung cấp những tài liệu  
hiện thực, khách quan, làm cơ sở để con người nhận thức. Thực tiễn thường  
xuyên vận động, phát triển nên nó luôn luôn đặt ra những nhu cầu, nhiệm vụ,  
phương hướng mới cho nhận thức, do đó thực tiễn động lực mục đích của  
nhận thức. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vì nó vừa hiện thực khách quan  
chứng minh tính đúng, sai về nhận thức của con người.  
Quan điểm nêu trên cho ta kết luận phải đảm bảo sự thống nhất luận và  
thực tiễn, nhận thức xuất phát từ thực tiễn. Mỗi người thường xuyên có ý thức tự  
kiểm tra nhận thức của mình thông qua thực tiễn đồng thời phải chống mọi biểu  
hiện của bệnh kinh nghiệm bệnh giáo điều trong nhận thức hoạt động thực  
tiễn.  
b) Chủ nghĩa duy vật lịch sử  
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ cơ sở vật chất của đời sống hội và  
những quy luật cơ bản của quá trình vận động, phát triển của hội. Đó là các  
quy luật:  
- Quy lut quan hsn xut phù hp vi trình độ phát trin ca lc lượng  
sn xut  
Theo quan điểm duy vật lịch sử, con người sáng tạo ra lịch sử và là chủ  
thể của lịch sử. Con người hoạt động sản xuất ra của cải vật chất, tinh thần và  
sản xuất ra chính con người. Để tồn tại và phát triển, trước tiên con người phải  
ăn, uống, mặc trước khi có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo,  
sinh sản... Muốn vậy, họ phải lao động sản xuất ra của cải vật chất.  
Phương thức sản xuất là cách thức tiến hành sản xuất vật chất trong một  
giai đoạn nhất định của lịch sử. Mỗi phương thức sản xuất gồm hai mặt cấu  
thành là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.  
12  
Lực lượng sản xuất mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, là  
trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu  
sản xuất người lao động. Tư liệu sản xuất gồm đối tượng lao động và công cụ  
lao động, trong đó công cụ lao động yếu tố động nhất, luôn đổi mới theo tiến  
trình phát triển khách quan của sản xuất vật chất.  
Quan hệ sản xuất mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản  
xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ  
trong tổ chức, quản lý và phân công lao động; quan hệ trong phân phối sản phẩm  
lao động. Ba mặt đó có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ sở hữu đối  
với tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định các mối quan hệ khác.  
Trong mỗi phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất  
gắn hữu cơ với nhau. Lực lượng sản xuất nội dung vật chất, quan hệ sản  
xuất là hình thức hội của phương thức sản xuất. Lực lượng sản xuất như thế  
nào về trình độ phát triển thì quan hệ sản xuất phù hợp như thế ấy. Khi trình độ  
lực lượng sản xuất phát triển, thay đổi thì quan hệ sản xuất cũng thay đổi theo.  
Do con người luôn tích luỹ sáng kiến và kinh nghiệm, luôn cải tiến công cụ và  
phương pháp sản xuất nên lực lượng sản xuất luôn phát triển. Khi khoa học, kỹ  
thuật phát triển mạnh mẽ, hiện đại sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.  
Khi lực lượng sản xuất phát triển đến mức độ nào đó mà quan hệ sản xuất  
không còn phù hợp nữa, sẽ mâu thuẫn cản trở lực lượng sản xuất. Để  
tiếp tục phát triển, lực lượng sản xuất phải phá vỡ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập  
quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ mới, thúc đẩy lực lượng sản xuất  
phát triển.  
Quan hệ sản xuất là phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất khi nó  
tạo ra những tiền đề, những điều kiện cho các yếu tố của lực lượng sản xuất  
(người lao động, công cụ, đối tượng lao động) để đưa sản xuất phát triển. Sự phù  
hợp đó không phải chỉ thực hiện một lần là xong mà diễn ra cả một quá trình  
liên tục. Mỗi khi sự phù hợp quan hệ sản xuất lực lượng sản xuất bị phá vỡ là  
mỗi lần điều chỉnh, thay bằng sự phù hợp khác ở mức cao hơn.  
Quy luật này cho ta nhận thức, muốn hội phát triển; trước hết phải thúc  
đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Phải ứng dụng khoa học công nghệ mới, cải  
tiến công cụ lao động, không ngừng nâng cao trình độ, kỹ năng của người lao  
động, năng suất lao động... Phải làm rõ các quan hệ sở hữu, cách thức tổ chức  
quản lý quá trình sản xuất và các hình thức phân phối phù hợp thúc đẩy lực  
lượng sản xuất phát triển.  
13  
- Quy lut vmi quan hbin chng gia cơ shtng và kiến trúc  
thượng tng  
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế  
của một hình thái kinh tế-xã hội nhất định, bao gồm quan hệ sản xuất thống trị,  
quan hệ sản xuất còn lại của hình thái kinh tế-xã hội trước đó và quan hệ sản  
xuất của hình thái kinh tế-xã hội tương lai. Trong đó quan hệ sản xuất thống trị  
giữ vai trò chủ đạo và chi phối các quan hệ sản xuất khác.  
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm tư tưởng chính trị,  
pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, triết học... những thiết chế tương  
ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các tổ chức quần chúng..., được hình  
thành trên cơ sở hạ tầng nhất định phản ánh cơ sở hạ tầng đó.  
Cơ sở hạ tầng thế nào thì kiến trúc thượng tầng được xây dựng tương ứng.  
Quan hệ sản xuất nào thống trị thì tạo ra kiến trúc thượng tầng chính trị phù hợp  
với nó. Khi cơ sở hạ tầng biến đổi, kiến trúc thượng tầng biến đổi theo. Biến đổi  
cơ sở hạ tầng, sớm hay muộn cũng dẫn tới biến đổi kiến trúc thượng tầng. Tuy  
nhiên, khi cơ sở hạ tầng mất đi nhưng các bộ phận của kiến trúc thượng tầng mất  
theo không đều, bộ phận vẫn tồn tại, thậm chí nó còn được sử dụng.  
Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại, bảo vệ cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.  
Kiến trúc thượng tầng là tiên tiến khi nó bảo vệ cơ sở hạ tầng tiến bộ và tác động  
thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát triển. Kiến trúc thượng tầng bảo thủ, lạc hậu sẽ tác  
động kìm hãm nhất thời sự phát triển cơ sở hạ tầng. Trong các bộ phận của kiến  
trúc thượng tầng, Nhà nước có vai trò quan trọng và có hiệu lực mạnh nhất vì  
Nhà nước là công cụ quản hiệu quả của giai cấp thống trị đối với hội  
Quy luật này cho ta nhận thức, kinh tế quyết định chính trị, muốn hiểu các  
hiện tượng, quá trình xã hội phải xem xét cơ sở kinh tế nảy sinh các hiện tượng  
hội đó. Chính trị biểu hiện tập trung của kinh tế và có khả năng thúc đẩy,  
phát triển kinh tế.  
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, hình thái kinh tế-xã hội được tạo thành bởi ba  
bộ phận cơ bản lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng.  
Kiến trúc thượng tầng phụ thuộc vào quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất lại phụ  
thuộc vào tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó, sự phát  
triển hình thái kinh tế-xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên, tuy nhiên nó diễn ra  
không phải tự động phải thông qua cách mạng hội.  
- Cách mạng hội bước nhảy vọt về chất trong sự phát triển hội, là  
sự thay thế hình thái kinh tế-xã hội này bằng hình thái kinh tế-xã hội khác, tiến  
bộ hơn. Trong cách mạng hội, quần chúng nhân dân động lực cơ bản. Quần  
14  
chúng nhân dân người sáng tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần cho xã hội,  
tạo điều kiện cho sự phát triển hội,... lực lượng quyết định sự phát triển của  
lịch sử hội.  
2. Kinh tế chính trị Mác-Lênin  
Kinh tế chính trị học Mác-Lênin là khoa học nghiên cứu các quan hệ xã  
hội của sản xuất và trao đổi mà các quan hệ này được đặt trong sự liên hệ biện  
chứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất kiến trúc thượng tầng  
tương ứng của phương thức sản xuất nhất định  
Nghiên cứu kinh tế chính trị học tập trung vào các nội dung sau:  
a) Học thuyết giá trị và giá trị thặng dư  
- Học thuyết giá trị xuất phát điểm trong toàn bộ luận kinh tế của  
C.Mác. Bằng việc phân tích hàng hoá, C.Mác đã vạch ra quan hệ giữa người với  
người thông qua quan hệ trao đổi hàng hoá, đó chính là lao động, cơ sở của giá  
trị hàng hoá.  
Hàng hoá là sn phm ca lao động, dùng để thomãn nhu cu ca con  
người thông qua trao đổi mua bán. Hàng hoá có hai thuc tính cơ bn là giá trsử  
dng và giá trtrao đổi. Giá trsdng ca hàng hoá là công dng ca hàng hoá  
để thomãn nhu cu nào đó ca con người. Giá trtrao đổi là mt tl, theo đó  
nhng giá trsdng loi này được trao đổi vi nhng giá trsdng loi khác.  
Giá trị của hàng hoá là lượng lao động hội được đo bằng thời gian lao  
động hội cần thiết của người sản xuất hàng hoá. Giá trị trao đổi chỉ là hình  
thái biểu hiện của giá trị hàng hoá. Để trao đổi hàng hoá đó với nhau phải căn cứ  
vào giá trị hội của của hàng hoá đó.  
Thời gian lao động hội cần thiết thời gian cần thiết để sản xuất ra  
một hàng hoá trong điều kiện bình thường của hội, tức với một trình độ kỹ  
thuật trung bình và cường độ lao động trung bình so với điều kiện hội nhất  
định. Thời gian lao động hội cần thiết không phải cố định, phụ thuộc vào  
năng suất lao động hội chất lượng của lao động.  
Năng suất lao động hội năng lực sản xuất của lao động được tính  
bằng số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng  
thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động tỷ lệ  
nghịch với thời gian lao động hội để sản xuất ra hàng hoá hay tỷ lệ nghịch  
với giá trị của hàng hoá. Chất lượng của lao động hay mức độ phức tạp của lao  
động tỷ lệ thuận với giá trị của hàng hoá. Theo mức độ phức tạp của lao động có  
thể chia lao động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản  
15  
đơn là lao động của bất kỳ một người bình thường nào có khả năng lao động  
cũng thể thực hiện được. Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được  
huấn luyện đào tạo thành lao động lành nghề.  
Việc sản xuất và trao đổi hàng hoá tất yếu sẽ dẫn đến sự xuất hiện của  
tiền. Tiền, về bản chất, một loại hàng hóa đặc biệt, vật ngang giá chung,  
thước đo giá trị trong trao đổi hàng hóa; là kết quả của quá trình phát triển của  
sản xuất và trao đổi hàng hóa. Tiền xuất hiện yếu tố ngang giá chung, là hình  
thái biểu hiện giá trị của hàng hóa. Tiền phản ảnh lao động hội mối quan  
hệ giữa người sản xuất và trao đổi hàng hóa.  
Giá trị của hàng hóa biểu hiện ra bên ngoài dưới hình thức tiền là giá cả  
của hàng hóa đó. Giá trị cơ sở của giá cả, còn giá cả sự biểu hiện bằng tiền  
của giá trị, phụ thuộc vào giá trị. Hàng hoá nào nhiều giá trị thì giá cả của sẽ  
cao và ngược lại. Tuy nhiên ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các yếu tố  
khác như sức cạnh tranh, cung cầu, sức mua của người tiêu dùng…  
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng  
hoá. Ở đâu sản xuất hàng hoá thì ở đó sự tồn tại và phát huy tác dụng của  
quy luật giá trị vì trao đổi hàng hoá phải theo nguyên tắc ngang giá, dựa trên cơ  
sở hao phí lao động hội cần thiết.  
- Học thuyết giá trị thặng dư. Học thuyết giá trị thặng dư là “hòn đá tảng”  
trong toàn bộ học thuyết kinh tế của C.Mác, là đóng góp to lớn của ông trong  
lịch sử tư tưởng nhân loại. chỉ ra bản chất bóc lột của phương thức sản xuất  
tư bản chủ nghĩa.  
Nội dung cơ bản của học thuyết là: Sản xuất hàng hóa phát triển đến một  
mức độ nhất định thì tiền biến thành tư bản. Công thức của lưu thông hàng hóa  
giản đơn Hàng-Tiền-Hàng, nghĩa là bán một hàng hóa đi để mua một hàng  
hóa khác....Công thức chung của lưu thông tư bản Tiền-Hàng-Tiền nhiều hơn,  
nghĩa là mua để bán nhằm có thêm lợi nhuận. Phần tiền tăng thêm so với số tiền  
lúc đầu bỏ vào lưu thông gọi là giá trị thặng dư.  
Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác đã chỉ nguồn gốc sinh ra giá trị  
thặng dư cho nhà tư bản khi nhà tư bản thuê công nhân, tức mua được loại hàng  
hóa đặc biệt là hàng hóa sức lao động. Giá trị hàng hoá sức lao động là toàn bộ  
những tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất, tái sản xuất sức lao động. Giá trị  
hàng hoá sức lao động bao gồm giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết đủ để duy trì  
sức khoẻ của người lao động ở trạng thái bình thường; chi phí đào tạo tuỳ theo  
tính chất phức tạp của lao động; giá trị tư liệu sinh hoạt cho con cái của người  
lao động. Trên thực tế, giá trị của hàng hóa sức lao động được thể hiện bằng tiền  
16  
công, tiền lương. Tiền công hay tiền lương sự biểu thị bằng tiền giá trị sức lao  
động, hay là giá cả của sức lao động.  
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động thể hiện ra trong quá trình tiêu  
dùng sức lao động để sản xuất ra một loại hàng hoá nào đó. Trong quá trình lao  
động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó,  
phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư.  
Trên thực tế, nhà tư bản trả tiền lương cho người công nhân, để công nhân  
làm việc cho họ, tạo ra sản phẩm trong khoảng thời gian nhất định. Khi đem bán  
các sản phẩm đó nhà tư bản thu về một lượng tiền lớn hơn tiền công đã trả cho  
người công nhân và các chi phí về máy móc, nguyên liệu, khấu hao nhà xưởng...  
Nói cách khác, trong sử dụng hàng hóa sức lao động của người công nhân, họ đã  
tạo ra một lượng giá trị mới, lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đó chính là sản  
xuất ra giá trị thặng dư, nguồn gốc tạo ra lợi nhuận, nguồn gốc ngày càng giàu  
của chủ tư bản.  
Mục đích của các nhà tư bản sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa. Họ  
thường sử dụng hai phương pháp chủ yếu: Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối thu  
được do kéo dài thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị  
sức lao động thời gian lao động tất yếu không thay đổi. Sản xuất giá trị thặng  
dư tương đối là giá trị thặng dư thu được nhờ rút ngắn thời gian lao động tất yếu;  
do đó kéo dài thời gian lao động thặng dư trong khi độ dài ngày lao động không  
thay đổi, thậm chí rút ngắn. Trong thực tế, việc ứng dụng các thành tựu khoa  
học công nghệ, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động hội để thu giá  
trị thặng dư vượt trội hơn, đó là giá trị thặng dư siêu ngạch, một biến tướng của  
giá trị thặng dư tương đối.  
Sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối, cơ sở tồn tại và phát  
triển của chủ nghĩa tư bản.  
Học thuyết giá trị thặng dư đã vạch bản chất của nền sản xuất tư bản  
chủ nghĩa; chứng minh khoa học về cách thức bóc lột giai cấp công nhân của  
giai cấp tư sản luận chứng những mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản.  
Đây cơ sở khoa học để phân tích nguyên nhân và dự báo cuộc đấu tranh của  
giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm xoá bỏ mọi chế độ áp bức bóc lột  
tư bản chủ nghĩa tất yếu.  
Dưới chủ nghĩa hội, nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội,  
học thuyết giá trị thặng dư vẫn có giá trị. Nó trang bị cho cả giai cấp công nhân  
và các chủ doanh nghiệp về nguồn gốc của giá trị thặng dư, từ đó cần quan tâm  
ứng dụng khoa học-công nghệ hiện đại, quan tâm nguồn nhân lực chất lượng  
17  
Tải về để xem bản đầy đủ
docx 154 trang myanh 12860
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu dạy học môn Giáo dục chính trị - Trình độ Cao đẳng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docxtai_lieu_day_hoc_mon_giao_duc_chinh_tri_trinh_do_cao_dang.docx