Tài liệu học tập chính trị dành cho học viên lớp Bồi dưỡng kết nạp Đảng

Bài 1  
KHÁI QUÁT LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM  
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch HChí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn  
luyện. Hơn tám thập kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành  
Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, xoá bỏ hoàn toàn chế độ thực dân phong  
kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ  
nghĩa Việt Nam); đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, hoàn thành sự nghiệp  
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng  
chủ nghĩa hội bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.  
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã giành được những thắng  
lợi rất vẻ vang, mở ra kỷ nguyên mới trong sự phát triển của dân tộc ta: kỷ nguyên  
độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa hội.  
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam như Chủ tịch. Hồ Chí Minh đã khẳng định,  
cả một pho lịch sử bằng vàng. Kho tàng lịch sử quý giá đó không chỉ gồm những  
sự kiện lịch sử oanh liệt, hào hùng của Đảng và dân tộc điều có ý nghĩa lớn lao  
những kinh nghiệm, những bài học lịch sử, những vấn đề luận cách mạng Việt  
Nam được tổng kết từ hiện thực lịch sử với những sự kiện oanh liệt hào hùng đó.  
vậy, học tập, nghiên cứu lịch sử Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với  
mỗi chúng ta.  
I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI, BƯỚC NGOẶT QUYẾT  
ĐỊNH CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM  
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đó kết quả của sự chuẩn  
bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị tổ chức; của sự vận dụng và phát triển sáng tạo  
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta; là sản phẩm của sự kết hợp  
chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Sự ra  
đời của Đảng đáp ứng nhu cầu lịch sử của đất nước ta; phù hợp với xu thế phát  
triển của thời đại.  
1. Tình hình xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời  
Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược Việt Nam, rồi từng  
bước thiết lập chế độ thống trị của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta.  
Về chính trị, người Pháp trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy  
nhà nước, thi hành chính sách cai trị chuyên chế, biến một bộ phận giai cấp tư sản  
mại bản địa chủ phong kiến Việt Nam thành tay sai đắc lực. Sự cấu kết giữa chủ  
nghĩa đế quốc và phong kiến tay sai là đặc trưng của chế độ thuộc địa. Chính  
quyền thuộc địa không chỉ tước hết quyền độc lập, quyền tự do dân chủ của nhân  
dân ta mà còn tiến hành đàn áp một cách dã man mọi phong trào yêu nước, ngăn  
chặn ảnh hưởng của các trào lưu tiến bộ tbên ngoài vào nước ta.  
Về kinh tế, thực dân Pháp triệt để khai thác Đông Dương lợi ích của giai  
cấp tư sản Pháp, bóc lột tàn bạo nhân dân ta, thực hiện chính sách độc quyền, kìm  
hãm sự phát triển kinh tế độc lập của nước ta. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô  
lý, vô nhân đạo, duy trì bóc lột kiểu phong kiến... đẩy nhân dân ta vào cảnh bần  
cùng, làm cho nền kinh tế bị què quặt, lệ thuộc vào kinh tế Pháp, để lại hậu quả  
nghiêm trọng, kéo dài.  
Về văn hoá - xã hội, Pháp thực hiện chính sách ngu dân, khuyến khích văn  
hoá nô dịch, sùng Pháp, kìm hãm nhân dân ta trong vòng tăm tối, dốt nát, lạc hậu,  
phục tùng sự cai trị của chúng.  
Quá trình khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp đã làm cho xã hội  
Việt Nam có những biến đổi lớn; hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công nhân và  
giai cấp tư sản. Nước ta từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa  
phong kiến. Trong xã hội tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể  
dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ  
yếu là nông dân với giai cấp địa chphong kiến tay sai, chỗ dựa cho bộ máy thống  
trị và bóc lột của chủ nghĩa thực dân Pháp. Hai mâu thuẫn đó có quan hệ chặt chẽ  
với nhau, trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân Pháp xâm lược là mâu  
thuẫn chủ yếu. vậy, nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm lược nhiệm vụ  
chống địa chủ phong kiến tay sai không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân  
tộc phải gắn chặt với đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của  
cách mạng Việt Nam đặt ra, cần được giải quyết.  
2. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời  
Trong quá trình đấu tranh dựng nước giữ nước lâu dài, gian khổ, dân tộc ta  
sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh anh dũng, bất  
khuất. vậy, ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta đã liên tiếp đứng  
lên chống lại chúng. Từ năm 1858 đến trước năm 1930, hàng trăm cuộc khởi  
nghĩa, phong trào chống Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau, như  
khởi nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, phong trào Cần Vương,  
phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân; các cuộc khởi nghĩa do  
Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... lãnh đạo. Các cuộc khởi  
nghĩa, phong trào đấu tranh đó vô cùng anh dũng, nhưng đã bị thực dân Pháp đàn  
áp tàn bạo cuối cùng đều thất bại.  
Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh là do  
những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm được con  
đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của hội Việt Nam. Cách  
mạng nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Việc tìm  
một con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải phóng dân  
tộc thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ.  
3. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước sự ra đời của Đảng  
Cộng sản Việt Nam  
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối  
cứu nước, ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Nguyễn  
Ái Quốc, Hồ Chí Minh) ra nước ngoài, bắt đầu đi tìm đường cứu nước. Người đã  
qua nhiều nơi trên thế giới, vừa lao động, vừa học tập, nghiên cứu luận và kinh  
nghiệm các cuộc cách mạng tư sản điển hình (Pháp, Mỹ), tích cực tham gia hoạt  
động trong Đảng hội Pháp.  
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng lớn đến tư  
tưởng của Nguyễn Ái Quốc. Người rất ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó, kính phục  
V. I. Lênin và đã tham gia nhiều hoạt động ủng hộ, bảo vệ cách mạng Nga; tham  
gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Những hoạt động cách mạng phong phú đó đã  
giúp Người từng bước rút ra những bài học quý báu và bổ ích cho sự lựa chọn con  
đường cách mạng của mình.  
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận  
cương về vấn đề dân tộc vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin. Luận cương đã giải  
đáp trúng những vấn đề Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở. Từ đây, Người đã tìm  
ra con đường cứu nước, cứu dân đúng đắn: "Muốn cứu nước giải phóng dân tộc  
không có con đường nào khác con đường cách mạng sản"1; xác định những vấn  
đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc. Đó là con đường giải phóng dân tộc  
gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa hội, giai cấp vô  
sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng dân tộc từng nước  
với phong trào cách mạng sản thế giới.  
Đối với Nguyễn Ái Quốc, đây bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến với  
chủ nghĩa cộng sản, từ một chiến sĩ giải phóng dân tộc trở thành một chiến sĩ cộng  
sản quốc tế. Sự kiện đó cũng đánh dấu bước ngoặt mở đường thắng lợi cho sự  
nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc người Việt Nam đầu tiên  
tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta, tìm ra con đường  
đúng đắn giải phóng dân tộc Việt Nam.  
Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động  
trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào cách mạng thuộc địa;  
nghiên cứu truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam qua các báo Người  
cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và sau này là tác phẩm Bản án chế độ  
thực dân Pháp (1925).  
Sau một thời gian ngắn tham gia học tập ở Liên Xô và hoạt động trong Quốc  
tế Cộng sản, tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) trực  
tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người  
sáng lập trực tiếp huấn luyện Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, sáng lập và  
viết bài cho báo Thanh niên, xuất bản tác phẩm Đường Kách mệnh (1927)... nhằm  
tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước. Người tổ chức đào tạo, bồi  
dưỡng cán bộ cốt cán, tiếp tục chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng tổ chức cho  
việc thành lập Đảng.  
Chủ nghĩa Mác - Lênin và các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc  
được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như người đi đường  
đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”. Nó lôi cuốn những người  
yêu nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng sản; làm dấy lên cao trào đấu  
tranh mạnh mẽ, sôi nổi khắp cả nước, trong đó giai cấp công nhân ngày càng trở  
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.9, tr.314.  
thành một lực lượng chính trị độc lập. Sự truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào  
phong trào quần chúng và phong trào công nhân, làm cho phong trào đấu tranh của  
giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải tổ  
chức đảng chính trị lãnh đạo. vậy, các tổ chức cộng sản lần lượt được thành lập:  
- Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ.  
- Mùa Thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ.  
- Ngày 1-1-1930, Đông Dương Cng sn Liên đoàn được thành lp Trung K.  
Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản  
tuyên bố thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách  
mạng ở Việt Nam, đồng thời sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập  
trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách  
mạng đặt ra là cần một đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách  
mạng của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc -  
cán bộ của Quốc tế Cộng sản, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt  
Nam - là người duy nhất đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu thống nhất các  
tổ chức cộng sản.  
Từ ngày 6-1 đến ngày 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp  
tại bán đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí  
Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất, lấy tên là Đảng  
Cộng sản Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương  
trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng.  
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như  
Đại hội thành lập Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập kết quả của  
cuộc đấu tranh giai cấp đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ  
XX, là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân  
và phong trào yêu nước, kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc  
của lịch sử của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng tổ chức của  
một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu đồng chí Nguyễn Ái Quốc.  
Đó một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam,  
chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước. Chánh cương vắn tắt, Sách  
lược vắn tắt do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị thành lập Đảng  
Cộng sản Việt Nam thông qua đã xác định: cách mạng Việt Nam phải tiến hành  
cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa hội. Độc lập dân tộc chủ  
nghĩa hội là con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải  
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người.  
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng  
đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo  
cách mạng.  
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái  
Quốc - Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.  
II. NHỮNG THÀNH TỰU VĨ ĐẠI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM DƯỚI  
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG  
1. Đảng lãnh đạo tổ chức các cuộc đấu tranh cách mạng, khởi nghĩa  
giành chính quyền - Cách mạng Tháng Tám 1945  
Ngay khi vừa mới ra đời, với đường lối cách mạng cứu nước đúng đắn, Đảng  
ta đã quy tụ, đoàn kết chung quanh mình tất cả các giai cấp, các tầng lớp yêu nước,  
xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn rộng khắp, đấu tranh chống thực dân  
Pháp và bọn phong kiến tay sai vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.  
Qua 15 năm đầu tiên lãnh đạo cách mạng (1930-1945), trải qua các cuộc đấu  
tranh gian khổ hy sinh, với ba cao trào cách mạng lớn (1930-1931, 1936-1939,  
1939-1945), khi thời cơ đến Đảng đã lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám  
năm 1945 thành công. Nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô lệ của chế độ  
thực dân và lật nhào chế độ phong kiến tay sai thối nát.  
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch HChí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc  
Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, lập nên nhà  
nước của dân, do dân và vì dân. Dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên  
độc lập, tự do, dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa hội.  
Đánh giá ý nghĩa lch sca skin này, Chtch HChí Minh viết: “Chng  
nhng giai cp lao động và nhân dân Vit Nam ta có ththào, mà giai cp lao động  
và nhng dân tc báp bc nơi khác cũng có ththào rng: ln này là ln đầu tiên  
trong lch scách mng ca các dân tc thuc địa và na thuc địa, mt Đảng mi 15  
tui đã lãnh đạo cách mng thành công, đã nm chính quyn toàn quc"1.  
2. Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng và  
tiến hành thắng lợi các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ  
xâm lược (1945 - 1975)  
a) Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng (1945-1946)  
Ngay khi vừa mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã phải đối mặt  
với ba thứ giặc: giặc đói, giặc dốt giặc ngoại xâm. Nạn đói hoành hành đầu năm  
1945 đã làm chết hơn hai triệu người ở miền Bắc. Trên 95% dân Việt Nam mù  
chữ. Ở miền Bắc, hơn 20 vạn quân Tưởng đã tràn vào với mưu đồ "diệt cộng, cầm  
Hồ". Ở miền Nam, hơn 15 vạn quân Pháp với sự giúp đỡ của liên quân Anh - Ấn  
lăm le xâm lược nước ta. Trong khi đó, lực lượng mọi mặt của Nhà nước ta còn rất  
non yếu; vận mệnh của đất nước trước tình thế ngàn cân treo sợi tóc”. Đảng ta,  
đứng đầu Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã kịp thời đề ra những chủ trương quyết  
sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, hội, an ninh, quốc  
phòng. Đối với các thế lực thù địch, chúng ta đã thực hiện sách lược mềm dẻo, lợi  
dụng mâu thuẫn, phân hoá chúng, dành thời gian củng cố lực lượng, chuẩn bị  
kháng chiến. Với đường lối chính trị sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa  
mềm dẻo về sách lược, Đảng ta đã động viên được sức mạnh đoàn kết toàn dân,  
triệu người như một, vượt qua muôn vàn khó khăn, nguy hiểm để củng cố, giữ  
vững chính quyền, đưa cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo, chuẩn bị mọi mặt  
cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.  
b) Đảng lãnh đạo cuc kháng chiến chng thc dân Pháp xâm lược (1946-1954)  
Bất chấp mong muốn độc lập và hoà bình của Chính phủ và nhân dân ta, mặc  
dù chúng ta đã nhân nhượng nhưng thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng có dã tâm  
cướp nước ta một lần nữa.  
Lịch sử đã đặt dân tộc ta trước một thử thách mới, phải đứng lên bảo vệ nền  
độc lập của dân tộc. Đêm ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu  
gọi toàn quốc kháng chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng Chủ tịch Hồ Chí  
Minh, nhân dân cả nước đồng loạt đứng lên với quyết tâm “thà hy sinh tất cả chứ  
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.159.  
nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Với đường lối  
kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng  
chiến, vừa kiến quốc, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, giành  
thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đánh dấu bằng  
chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.  
Đánh giá ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ  
tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu  
đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó một thắng lợi vẻ vang của  
nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng một thắng lợi của các lực lượng hoà bình,  
dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới”1.  
Thắng lợi đó làm sáng tỏ một chân lý: “Trong điều kiện thế giới ngày nay,  
một dân tộc dù là nhỏ yếu, nhưng một khi đã đoàn kết đứng lên, kiên quyết đấu  
tranh dưới sự lãnh đạo của chính đảng Mác - Lênin để giành độc lập và dân chủ,  
thì có đầy đủ lực lượng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Thắng lợi đó cũng  
chứng tỏ rằng chỉ sự lãnh đạo đúng đắn của giai cấp công nhân mà Đảng ta là  
đại biểu, chỉ đường lối cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin mới có  
thể tạo điều kiện cho nhân dân ta đánh bại quân thù và giành tự do, độc lập”2.  
c) Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược  
(1954 - 1975)  
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt  
Nam bước vào thời kỳ mới với đặc điểm đất nước tạm thời chia làm hai miền  
với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập nhau. Đảng xác định con đường phát triển  
tất yếu của cách mạng Việt Nam là tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược:  
Một là, tiến hành cách mạng hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền  
Bắc thành căn cứ địa vững mạnh của cách mạng cả nước.  
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chống đế  
quốc Mỹ và bè tay sai, giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà.  
Tuy mỗi miền thực hiện một nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhưng mối  
quan hệ chặt chẽ với nhau; trong đó cách mạng hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ  
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.10, tr.12.  
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.21, tr.500.  
vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự phát triển của cách mạng Việt Nam, cách  
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vị trí quan trọng, có tác dụng trực  
tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.  
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống  
Mỹ, cứu nước với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “đánh cho Mỹ  
cút, đánh cho nguỵ nhào”. Trong cuộc đọ sức quyết liệt này, đế quốc Mỹ đã huy  
động sử dụng một lực lượng quân sự phương tiện chiến tranh khổng lồ hòng  
tiêu diệt lực lượng cách mạng nước ta. Trải qua 21 năm chiến đấu kiên cường, dưới  
sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ hy sinh,  
được sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, đã lần lượt đánh  
thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ ở miền Nam và chiến tranh phá  
hoại bằng không quân, hải quân ở miền Bắc. Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy  
mùa Xuân năm 1975 với thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân  
ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền  
Nam, thống nhất đất nước. Thắng lợi oanh liệt mùa Xuân năm 1975 đã kết thúc vẻ  
vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; chấm dứt ách thống  
trị tàn bạo hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân mới trên đất nước ta; hoàn  
thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước; bảo vệ thành quả của chủ nghĩa xã  
hội ở miền Bắc, mở ra thời kỳ mới - thời kỳ độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã  
hội trên phạm vi cả nước.  
Đánh giá tầm vóc vĩ đại và ý nghĩa lớn lao của cuộc kháng chiến chống Mỹ,  
cứu nước, Nghị quyết Đại hội IV của Đảng viết: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng  
thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi  
mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một  
biểu tượng sáng ngời về stoàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ  
con người, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một  
sự kiện tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”1.  
3. Đảng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội bảo vệ Tổ quốc  
hội chủ nghĩa (từ năm 1975 đến nay)  
Bước vào thi kcnước quá độ lên chnghĩa xã hi, cách mng Vit Nam  
có nhng thun li, song cũng không ít khó khăn. Khó khăn ln nht là nn kinh tế  
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.37, tr.471.  
sn xut nh, năng sut lao động thp, hu qunng ndo chiến tranh để li. Trong  
quan hquc tế, chnghĩa đế quc và các thế lc phn động bên ngoài tìm mi cách  
phá hoi, bao vây, cm vn, gây khó khăn cho cách mng Vit Nam. Trên thế gii,  
phong trào cng sn và công nhân quc tế tri qua nhiu din biến phc tp: chủ  
nghĩa xã hi gp nhng khó khăn, lâm vào khng hong, thoái trào, đặc bit là sự  
sp đổ ca chế độ xã hi chnghĩa Liên Xô và Đông Âu. Tình hình đó đã tác  
động, nh hưởng ln đến snghip xây dng chnghĩa xã hi nước ta.  
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong 10 năm (1975 - 1985), cách mạng Việt  
Nam đã vượt qua những khó khăn, trở ngại, thu được những thành tựu quan trọng.  
Chúng ta đã nhanh chóng hoàn thành việc thống nhất đất nước về mọi mặt, đánh  
thắng các cuộc chiến tranh biên giới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc hội chủ nghĩa.  
Trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá - xã hội, nhân dân ta đã những cố gắng to lớn  
trong công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, bước đầu bình  
ổn sản xuất đời sống nhân dân.  
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, những thành tựu về kinh tế - xã hội đạt  
được còn thấp so với yêu cầu, kế hoạch và công sức bỏ ra; nền kinh tế mặt mất  
cân đối nghiêm trọng, tỷ lệ lạm phát cao quá mức, đất nước lâm vào khủng hoảng  
kinh tế - xã hội.  
Vi tinh thn nhìn thng vào stht, đánh giá đúng stht, nói rõ stht, ti  
Đại hi VI ca Đảng (tháng 12-1986), Đảng đã nghiêm khc kim đim, khng định  
nhng mt làm được, phân tích rõ nhng sai lm, khuyết đim, đặc bit là khuyết  
đim chquan, duy ý chí trong lãnh đạo kinh tế. Đại hi đã đề ra đường li đổi mi  
toàn din, mra bước ngot trong công cuc xây dng chnghĩa xã hi nước ta.  
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây  
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội, Chiến lược ổn định và  
phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 và Nhiệm vụ kinh tế - xã hội 5 năm 1991 -  
1995. Đại hội đưa ra quan niệm tổng quát về hội hội chủ nghĩa ở Việt Nam,  
phương hướng cơ bản để xây dựng hội đó; khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin,  
tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng;  
khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế  
thị trường sự quản của Nhà nước, theo định hướng hội chủ nghĩa.  
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện Nghị  
quyết Đại hội VII của Đảng, đất nước ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay  
go. Đại hội VIII của Đảng (từ ngày 22-6 đến ngày 1-7-1996) đã nhận định: “Công  
cuộc đổi mới trong 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất  
quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991-1995 đã được hoàn  
thành về cơ bản.  
Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa  
vững chắc.  
Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ chuẩn bị tiền đề  
cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy  
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.  
Con đường đi lên chnghĩa xã hi nước ta ngày càng được xác định rõ hơn”1.  
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thVIII của Đảng đã khẳng định: "Tiếp tục sự  
nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu,  
nước mạnh, hội công bằng, văn minh vững bước đi lên chủ nghĩa hội"1 đề  
ra nhiệm vụ kinh tế - xã hội từ năm 1996 đến năm 2000 là: tăng trưởng kinh tế  
nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã  
hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích  
luỹ từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào  
thế kỷ XXI 2.  
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4-2001) đã kiểm điểm  
việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII và khẳng định, trong 5 năm 1996-2000,  
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã vượt qua những khó khăn, thách thức, đạt  
được những thành tựu quan trọng. Tổng kết 15 năm đổi mới, Đại hội đã khẳng  
định: Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã  
chứng minh tính đúng đắn của Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức càng rõ  
hơn về con đường đi lên chủ nghĩa hội ở nước ta. Đảng và nhân dân ta quyết  
tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường hội chủ nghĩa trên nền tảng  
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thế kỷ XX là thế kỷ đấu tranh  
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,  
1996, tr.67-68.  
1. Sđd, tr. 7.  
2. Xem: Sđd, tr. 82.  
oanh liệt chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta. Thế kỷ XXI sẽ thế kỷ nhân dân  
ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã  
hội bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta sánh vai cùng các nước phát triển trên thế giới.  
Đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội IX trong 5 năm (2001-2005),  
Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã khẳng định: toàn Đảng, toàn dân và toàn quân  
ta đã đạt những thành tựu rất quan trọng:  
Một là, nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá  
cao và phát triển tương đối toàn diện.  
- Tốc độ tăng trưởng GDP năm sau cao hơn năm trước. Bình quân trong 5  
năm 2001-2005 đạt 7,51%, đạt mức kế hoạch đề ra.  
Cơ cấu lao động đã sự chuyển đổi tích cực, gắn liền với quá trình chuyển  
dịch cơ cấu kinh tế. Các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển, chuyển dịch theo  
hướng phát huy tiềm năng, thế mạnh của mình, đóng góp một cách có hiệu quả vào  
sự phát triển chung của đất nước. Hoạt động kinh tế đối ngoại hội nhập kinh tế  
quốc tế bước tiến mới rất quan trọng.  
- Thể chế kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa được xây dựng bước  
đầu. Một số loại thị trường mới hình thành, phát triển phù hợp với cơ chế mới.  
Hai là, văn hoá và xã hội tiến bộ trên nhiều mặt; việc gắn phát triển kinh tế  
với giải quyết các vấn đề hội chuyển biến tốt; đời sống các tầng lớp nhân dân  
được cải thiện. Giáo dục đào tạo, khoa học - công nghệ bước phát triển khá;  
công tác xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm thu được nhiều kết quả; công tác  
chăm sóc sức khoẻ nhân dân đạt được kết quả tốt, đã khống chế đẩy lùi được  
một số bệnh dịch nguy hiểm; tuổi thọ trung bình của người Việt Nam tăng.  
Ba là, chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng và an ninh được tăng cường;  
quan hệ đối ngoại bước phát triển mới.  
Bốn là, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa tiến bộ trên  
cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và pháp. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn  
dân tộc được phát huy.  
Năm là, công tác xây dựng Đảng đạt một số kết quả tích cực.  
Đại hội cũng chỉ ra những khuyết điểm yếu kém:  
Một là, tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu  
quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm.  
Hai là, cơ chế, chính sách về văn hoá - xã hội chậm đổi mới; nhiều vấn đề xã  
hội bức xúc chưa được giải quyết tốt, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn  
nghiêm trọng, tội phạm một số tệ nạn hội chiều hướng tăng.  
Ba là, các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế.  
Bốn là, tổ chức hoạt động của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân  
dân còn một số khâu chậm đổi mới, bộ máy quản lý nhà nước các cấp, nhất ở cơ  
sở còn yếu kém; tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm ở một bộ  
phận công chức chậm được khắc phục; hoạt động của Quốc hội còn lúng túng; dân  
chủ trong xã hội còn bị vi phạm; kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi không nghiêm.  
Năm là, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu. Tình trạng suy  
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu,  
tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng.  
Nhiều tổ chức cơ sở đảng sức chiến đấu yếu.  
Những khuyết điểm, yếu kém trên là do nhiều nguyên nhân. Đại hội X của  
Đảng đã phân tích và chỉ ra nguyên nhân chủ quan là chính. Đó là, duy của  
Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới; sự chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa tốt;  
một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ chủ chốt, yếu kém về phẩm chất và  
năng lực. Đây những vấn đề cần sớm được khắc phục.  
Nhìn lại 20 năm đổi mới, Đại hội X khẳng định: Với sự nỗ lực phấn đấu của  
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những  
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đại hội đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm chủ  
yếu của quá trình đổi mới ở nước ta.  
Nhng thành tu và bài hc đó chng tỏ đường li đổi mi ca Đảng ta là đúng  
đắn, sáng to, phù hp vi thc tin Vit Nam. Qua 20 năm, hthng quan đim lý  
lun vcông cuc đổi mi, vxã hi xã hi chnghĩa và con đường đi lên chnghĩa  
hi Vit Nam đã hình thành trên nhng nét cơ bn, ngày càng sáng thơn.  
Thc hin chtrương Đại hi X, Đại hi XI ca Đảng đã tiến hành tng kết 20  
năm thc hin Cương lĩnh năm 1991, 10 năm thc hin Chiến lược phát trin kinh tế  
- xã hi 2001-2010 và nhim vphát trin kinh tế - xã hi 5 năm 2006-2011.  
Đại hội khẳng định, nhìn tổng quát, 5 năm qua, trong bối cảnh tình hình  
quốc tế và trong nước rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là do ảnh hưởng của  
cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, toàn Đảng, toàn dân ta đã  
nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng; ứng phó có kết quả với  
những diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới và trong nước; cơ bản giữ vững ổn  
định kinh tế vĩ mô; duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, các ngành đều có  
bước phát triển, quy mô nền kinh tế tăng lên; đời sống của nhân dân tiếp tục được  
cải thiện; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập,  
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; hoạt động đối ngoại, hội  
nhập quốc tế được mở rộng, vị thế, uy tín quốc tế của nước ta được nâng cao; phát  
huy dân chủ tiến bộ, khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được củng cố; công  
tác xây dựng Đảng hệ thống chính trị đạt một số kết quả tích cực.  
Kết quả đạt được trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X đã góp phần  
quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001  
- 2010 và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên  
chủ nghĩa hội.  
Mười năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 là giai  
đoạn đất nước ta thực sự đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nền  
kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa hội nhập quốc tế, đã đạt được  
những thành tựu to lớn rất quan trọng; kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ  
bình quân 7,26%/năm; tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 so với năm  
2000 theo giá thực tế gấp 3,26 lần; thu ngân sách, kim ngạch xuất khẩu gấp 5 lần;  
tuổi thọ bình quân tăng từ 67 tuổi lên 72,8 tuổi.  
Những thành tựu đạt được trong 20 năm thực hiện Cương lĩnh to lớn và có  
ý nghĩa lịch sử. Đất nước bước đầu thực hiện thành công công cuộc đổi mới, ra  
khỏi tình trạng kém phát triển, bộ mặt của đất nước đời sống của nhân dân có  
nhiều thay đổi; sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, độc lập, chủ quyền, thống  
nhất, toàn vẹn lãnh thổ chế độ hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín  
của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo tiền đề để nước ta tiếp tục  
phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới.  
Đại hội đã khẳng định Nguyên nhân của những thành tựu đạt được 5 năm qua  
là do sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,  
Ban Bí thư, các cấp uỷ đảng trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội X,  
giải quyết kịp thời, kết quả những vấn đề mới phát sinh; sự đổi mới, nâng cao  
chất lượng hoạt động của Quốc hội và các quan dân cử; sự điều hành năng động  
của Chính phủ, chính quyền các cấp; sự nỗ lực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn  
thể nhân dân, của cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân, cộng đồng các doanh  
nghiệp. Bối cảnh hội nhập quốc tế đem lại nhiều cơ hội, điều kiện thuận lợi cho sự  
phát triển đất nước.  
Tuy nhiên, một số chtiêu, nhiệm vụ Đại hội X đề ra chưa đạt; kinh tế phát  
triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp;  
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá chậm; chế độ  
phân phối còn nhiều bất hợp lý, phân hoá xã hội tăng lên. Những hạn chế, yếu kém  
trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hoá, xã hội, bảo vệ  
môi trường chậm được khắc phục; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tội phạm, tệ  
nạn hội, suy thoái đạo đức, lối sống... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Thể chế  
kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn những điểm  
yếu cản trở sự phát triển. Nền dân chủ hội chủ nghĩa sức mạnh đại đoàn kết  
toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà  
nước pháp quyền hội chủ nghĩa, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của  
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân chuyển biến chậm. Còn tiềm ẩn những  
yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội.  
Những hạn chế, yếu kém có nguyên nhân khách quan là do ảnh hưởng của  
cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu; thiên tai, dịch bệnh; những  
yếu kém vốn của nền kinh tế; sự chống phá của các thế lực thù địch; nhưng trực  
tiếp quyết định nhất vẫn là nguyên nhân chủ quan: Công tác nghiên cứu luận,  
tổng kết thực tiễn nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhận thức trên  
nhiều vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới còn hạn chế, thiếu thống nhất. Công tác  
dự báo trong nhiều lĩnh vực còn yếu. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, quản lý, điều  
hành của Nhà nước trên một số lĩnh vực một số vấn đề lớn chưa tập trung, kiên  
quyết, dứt điểm; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Tổ chức thực hiện vẫn là khâu  
yếu. Năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên  
chức còn bất cập.  
Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã tự phê bình trước Đại hội trước  
nhân dân về những khuyết điểm, yếu kém đã làm hạn chế những thành tựu lẽ ra có  
thể đạt được nhiều hơn.  
Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Đại hội XI đã  
rút ra một số kinh nghiệm sau đây:  
Một là, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện  
đường lối mục tiêu đổi mới, kiên định vận dụng sáng tạo, phát triển chủ  
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và  
chủ nghĩa hội. Đổi mới toàn diện, đồng bộ với những bước đi thích hợp. Tích  
cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn với chú trọng xây dựng nền kinh  
tế độc lập, tự chủ, giữ vững truyền thống bản sắc văn hoá dân tộc. Mở rộng,  
phát huy dân chủ phải gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương và ý thức trách nhiệm  
của mỗi công dân, quan, đơn vị, doanh nghiệp cả cộng đồng.  
Hai là, phải thực sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển  
bền vững, nâng cao chất lượng hiệu quả của nền kinh tế, đồng thời duy trì tốc độ  
tăng trưởng hợp lý, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Tăng cường huy động các  
nguồn lực trong và ngoài nước, sử dụng tiết kiệm hiệu quả các nguồn lực để đẩy  
nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Phát triển lực lượng sản xuất phải đồng thời xây  
dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp; củng ctăng cường các yếu tố bảo  
đảm định hướng hội chủ nghĩa của nền kinh tế.  
Ba là, phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực  
hiện tiến bộ và công bằng hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật  
chất và tinh thần của nhân dân, nhất đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu,  
vùng xa, đặc biệt là trong tình hình kinh tế khó khăn, suy giảm; gắn phát triển kinh  
tế với phát triển văn hoá, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường quan hệ đối  
ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng bảo vệ Tổ quốc.  
Bốn là, đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và  
tổ chức. Thật sự phát huy dân chủ, giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương, đoàn  
kết thống nhất, gắn mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ  
của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ,  
đảng viên vững vàng về chính trị, tư tưởng, trong sáng về đạo đức, lối sống, sức  
chiến đấu cao, thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ; phát huy hiệu lực, hiệu quả  
quản của Nhà nước, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và  
các đoàn thể nhân dân.  
Năm là, trong công tác lãnh đạo chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết,  
sáng tạo, bám sát thực tiễn đất nước; chú trọng công tác dự báo, kịp thời đề ra các  
giải pháp phù hợp với tình hình mới; tăng cường công tác tuyên truyền, tạo sự  
đồng thuận cao, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội.  
Trên cơ sở dự báo bối cảnh quốc tế và trong nước trong thời gian tới, Đại hội  
XI đã đề ra nhiệm vụ tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ theo con đường hội  
chủ nghĩa. Đại hội khẳng định, thực tiễn phong phú và những thành tựu đạt được  
qua 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ  
quá độ lên chủ nghĩa hội đã chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng  
đắn, sáng tạo; đi lên chủ nghĩa hội sự lựa chọn phù hợp với quy luật khách  
quan và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Chúng ta một lần nữa khẳng định: Chỉ có  
chủ nghĩa hội mới bảo đảm cho dân tộc ta có độc lập, tdo thực sự, đất nước  
phát triển phồn vinh, nhân dân cuộc sống ấm no, hạnh phúc.  
Qua tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Đại hội đánh giá ý  
nghĩa lịch sử và giá trị định hướng, chỉ đạo to lớn của Cương lĩnh đối với công  
cuộc đổi mới theo con đường hội chủ nghĩa ở nước ta; đồng thời cũng thấy rõ  
thêm những vấn đề mới đặt ra cần tiếp tục được giải đáp. Đại hội đã quyết định bổ  
sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991 để làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi  
hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên  
chủ nghĩa hội; phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công  
nghiệp theo hướng hiện đại; đến giữa thế kỷ XXI trở thành một nước công  
nghiệp hiện đại, theo định hướng hội chủ nghĩa.  
Để xây dựng thành công chủ nghĩa hội bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã  
hội chủ nghĩa, Đại hội đề ra nhiệm vụ tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ với chất  
lượng hiệu quả cao hơn; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát  
triển kinh tế tri thức; phát triển kinh tế thị trường gắn với giải quyết hài hoà các  
vấn đề hội, môi trường; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc  
làm nền tảng tinh thần của hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc  
gia; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển,  
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ hội chủ nghĩa,  
phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố mở rộng mặt trận  
dân tộc thống nhất; xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa của nhân dân,  
do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư  
tưởng, tổ chức. Đặc biệt chú trọng xử lý và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn:  
quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế đổi mới chính  
trị; giữa kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực  
lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất hội chủ  
nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công  
bằng hội; giữa xây dựng chủ nghĩa hội bảo vệ Tổ quốc hội chủ nghĩa;  
giữa độc lập, tự chủ hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,  
nhân dân làm chủ.  
Đặc biệt, Đại hội XI, đề ra 7 nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ là:  
- Nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của Đảng.  
- Cải cách hành chính, nhất thủ tục hành chính liên quan đến tổ chức và  
hoạt động của doanh nghiệp, sinh hoạt của nhân dân.  
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc công  
nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế của đất nước.  
- Xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, nhất hệ thống giao  
thông, yếu tố đang gây ách tắc, cản trở sự phát triển kinh tế, gây bức xúc trong  
nhân dân.  
- Đổi mới quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập của cán bộ,  
công chức, viên chức, người lao động; khắc phục tình trạng bất hợp lý và tác động  
tiêu cực của quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập hiện nay.  
- Tập trung giải quyết một số vấn đề hội bức xúc (suy thoái đạo đức, lối  
sống, tệ nạn hội, trật tự, kỷ cương hội).  
- Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng,  
lãng phí để thực sự ngăn chặn, đẩy lùi được tệ nạn này.  
III. NHỮNG TRUYỀN THỐNG QUÝ BÁU CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN  
VIỆT NAM  
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng không ngừng được tôi luyện,  
trưởng thành và đã xây dựng nên những truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt  
đẹp của Đảng. Đó là:  
- Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng.  
- Tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo.  
- Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững ngọn  
cờ độc lập dân tộc chủ nghĩa hội.  
- Trung thành vi li ích giai cp, li ích dân tc, gn bó mt thiết vi nhân dân.  
- Kiên định nguyên tc tp trung dân chtrong tchc và hot động ca Đảng.  
- Giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế...  
Nhng truyn thng quý báu ca Đảng là skế tha và phát huy truyn thng  
tt đẹp ca dân tc, ca giai cp công nhân Vit Nam và giai cp công nhân quc tế,  
là sc mnh bo đảm vai trò lãnh đạo ca Đảng. Đó là kết quca quá trình vun  
trng, xây đắp bn b, là shy sinh, phn đấu không mt mi ca các thế hệ đảng viên  
ca Đảng. Nhng truyn thng đó có ý nghĩa dân tc và quc tế sâu sc, thhin tinh  
thn cách mng trit để, trình độ trí tungày càng được nâng cao ca Đảng ta.  
Khái quát lịch sử Đảng thể khẳng định rằng: ngay từ khi vừa mới ra đời,  
Đảng ta, đứng đầu Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đã nắm bắt đúng xu thế phát  
triển của thời đại, gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng  
thế giới, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc trên lập trường của giai cấp công nhân.  
vậy, trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, nhất là trong những  
bước ngoặt lịch sử phải đương đầu với mọi thử thách, dù hiểm nghèo, tưởng không  
thể vượt qua, Đảng đã kịp thời những quyết sách sáng suốt, đúng đắn, đáp ứng  
yêu cầu phát triển của thực tiễn, đưa con thuyền cách mạng vượt lên.  
Cơ sở, nguồn gốc sức mạnh truyền thống của Đảng ở chỗ: Đảng đứng  
vững trên nền tảng tư tưởng tiên tiến của thời đại, đó chủ nghĩa Mác - Lênin và  
tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng không chỉ nắm bắt những nguyên lý cơ bản của chủ  
nghĩa Mác - Lênin, mà còn vận dụng sáng tạo và phát triển trong thực tiễn cách  
mạng Việt Nam. Cơ sở, nguồn gốc sức mạnh của Đảng còn ở chỗ Đảng đã không  
ngừng phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tiếp thu những tinh hoa trí  
tuệ của nhân loại.  
Học tập, nghiên cứu lịch sử truyền thống của Đảng để tự hào về Đảng và  
góp phần giữ vững, kế thừa, phát huy những truyền thống đó, làm cho Đảng ngày  
càng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của  
Đảng ngang tầm thời đại mới.  
CÂU HỎI THẢO LUẬN  
1. Phân tích hoàn cảnh ra đời và vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với  
sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.  
2. Từ khi ra đời tới nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân  
giành được những thắng lợi vĩ đại. Khái quát các thắng lợi vĩ đại trong 80 năm qua.  
3. Phân tích những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam.  
Tải về để xem bản đầy đủ
doc 85 trang myanh 12580
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu học tập chính trị dành cho học viên lớp Bồi dưỡng kết nạp Đảng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • doctai_lieu_hoc_tap_chinh_tri_danh_cho_hoc_vien_lop_boi_duong_k.doc